Xuất siêu phát tín hiệu không vui
Cán cân xuất nhập khẩu hàng hoá trong 4 tháng đầu năm 2016 có 2 kết quả đáng chú ý. Thứ nhất, cả nước đã xuất siêu 1,46 tỷ USD. Thứ hai, nhập siêu từ Trung Quốc đang có biểu hiện chững lại.
Đặt trong bối cảnh chung, 2 thông tin này đáng lý là phải mừng khi cán cân thương mại thặng dư góp phần tích cực cho ổn định vĩ mô; đồng thời điểm yếu của nền sản xuất phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Trung Quốc bấy lâu nay đã phần nào được cải thiện. Tuy nhiên, một số chuyên gia không nghĩ vậy.
Nhờ FDI tăng xuất khẩu, thành tích xuất siêu đã “đẹp” hơn |
Tìm dòng chuyển dịch
Theo số liệu thống kê thực tế của Tổng cục Hải quan, tính chung 2 tháng đầu năm, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc 4,09 tỷ USD, giảm 23,62% so với cùng kỳ năm 2015. Số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê trong 4 tháng đầu năm cho thấy xu hướng này vẫn duy trì, với nhập siêu từ thị trường Trung Quốc ước đạt 8,9 tỷ USD, giảm 12,7% so với cùng kỳ năm 2015. Nhập khẩu từ Trung Quốc vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, song cũng duy trì xu hướng giảm trong 4 tháng đầu năm.
Dấu hiệu giảm phụ thuộc vào Trung Quốc mới nhen nhóm trong 4 tháng đầu năm, có vẻ là khoảng thời gian chưa đủ dài để khẳng định sẽ trở thành xu hướng. Tuy nhiên, nếu đặt trong chuỗi thời gian nhập siêu từ nước này liên tục tăng nhanh trong mấy năm gần đây, thì sự chững lại là rất đáng lưu ý.
Cụ thể, từ năm 2008-2011, mỗi năm số nhập siêu từ nước láng giềng đều chỉ nhích thêm khoảng 1 tỷ USD, và năm 2011 mới chạm mốc 13,5 tỷ USD. Song tới năm 2012, nhập siêu vọt lên tới 16,7 tỷ USD, tăng 21,8%. Liên tục trong năm 2013-2014, nhập siêu từ Trung Quốc duy trì mức tăng hàng năm lần lượt là 46,3% và 21,8%. Tới năm 2015, tốc độ tăng nhập siêu có giảm lại ở mức 12,5%. Năm 2016, nhập siêu từ Trung Quốc bắt đầu giảm.
TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương bổ sung, trong 4 tháng đầu năm, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc vẫn tăng, trong khi mức nhập khẩu giảm mạnh. Đây là biểu hiện đáng chú ý và ở bề nổi có vẻ là đáng mừng. Song để tìm hiểu cặn kẽ bản chất của câu chuyện nhập siêu giảm, ông Thành lưu ý cần phân tích sâu hơn vào các nhóm mặt hàng trong rổ hàng hoá xuất nhập khẩu.
Theo đó, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã có mức tăng ấn tượng so với cùng kỳ năm trước như điện thoại và linh kiện tăng 23,8%; hàng dệt may tăng 6,2%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 6,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác tăng 15,8%...
Ở chiều ngược lại, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch giảm lại chính là nguyên phụ liệu sản xuất các sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu tăng. Cụ thể, điện thoại và linh kiện giảm 6,9%; hóa chất giảm 7,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác giảm 8,9%...
“Đáng nhẽ bình thường khi xuất khẩu tăng thì nhập khẩu cũng phải tăng, nhưng biểu hiện thực tế lại không như vậy, là vì sao?”, TS. Võ Trí Thành đặt câu hỏi. Ông lý giải, liệu có phải do DN Việt Nam đã cạnh tranh tốt hơn, tự cung cấp đầu vào tốt hơn? “Theo tôi là không phải, vì trong thời gian ngắn như vậy thì khó có thể cải thiện nhanh như vậy. Ở đây chủ yếu là do các DN vệ tinh theo chân các tập đoàn lớn vào Việt Nam và trực tiếp cung cấp linh phụ kiện”, TS. Võ Trí Thành khẳng định.
Lo DN nội chậm lớn
Kết quả thu hút FDI 4 tháng đã cho thấy rõ hơn thực trạng này. Tính đến hết ngày 20/4, tổng số vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm đã tăng tới 85% so với cùng kỳ năm trước. Báo cáo của Tổng cục Thống kê đã nhận xét trực diện hơn khi cho biết, do Samsung đẩy mạnh xuất khẩu trong tháng 3/2016 nên xuất khẩu điện thoại và linh kiện đã cao hơn tới 672 triệu USD so với con số ước tính. Cùng với một số sản phẩm xuất khẩu do FDI “cầm trịch” cũng đạt kim ngạch cao hơn ước tính, đã góp phần tạo nên thành tích xuất siêu của 4 tháng.
Những biểu hiện trên cho thấy các DN FDI vẫn đang tận dụng cơ hội từ hội nhập tốt hơn khi hối hả gia tăng đầu tư, trong khi phía nội lực là khối DN trong nước vẫn rất chậm cải thiện. Trong bối cảnh đó, cục diện chung càng kém sáng sủa hơn khi gần đây nhiều chuyên gia kinh tế đưa ra nhận định rằng kinh tế thế giới sẽ khó cải thiện như giai đoạn trước đây. Đối với một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam, thì đây thực sự là điều đáng quan ngại.
TS. Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc chương tình giảng dạy kinh tế Fulbright nhận định: “Con số hiện nay đang phản ánh đúng tốc độ tăng trưởng của kinh tế thế giới giai đoạn tiếp theo, chứ không còn là vấn đề có hồi phục được hay không”. Do đó ông Thành cho rằng, nếu mọi thứ diễn ra bình thường, không có thêm khủng hoảng thì kinh tế thế giới cũng chỉ tăng trưởng được khoảng 3% trong giai đoạn tới, không còn dưới tiềm năng hay chưa hồi phục như lâu nay chúng ta trông đợi.
Trong bối cảnh đó, sự kỳ vọng vào hội nhập sâu rộng để gia tăng xuất khẩu có vẻ sẽ không thuận lợi như dự đoán. Song đáng lo ngại hơn, ông Thành khuyến cáo, nếu vẫn tiếp tục dựa vào FDI để gia tăng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng như hiện nay, lại càng không phải là chiến lược hiệu quả.