Kiểm soát chặt hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài
Ảnh minh họa |
Kiểm soát chặt để hạn chế rủi ro
Theo NHNN Việt Nam (cơ quan soạn thảo), trong bối cảnh kinh tế của Việt Nam hiện nay, nền kinh tế phát triển chưa ổn định, dự trữ ngoại hối mỏng, vốn ngoại tệ vẫn thiếu phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.
Mặt khác, nước ta mới đang ở giai đoạn đầu của quá trình tự do hóa tài khoản vốn, việc đầu tư gián tiếp ra nước ngoài cần được quản lý rất chặt chẽ và thận trọng nhằm tránh tác động gây xáo trộn thị trường ngoại hối, ảnh hưởng tiêu cực đến điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá, tránh tác động bất lợi lên cán cân thanh toán quốc tế và cân đối kinh tế vĩ mô nói chung.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách quản lý chặt chẽ hoạt động đầu tư gián tiếp còn nhằm mục đích bảo vệ nhà đầu tư, giảm thiểu rủi ro kinh doanh khi đầu tư vào các lĩnh vực nhiều biến động và khó kiểm soát trên thị trường tài chính quốc tế.
Trên cơ sở đó, Nghị định được xây dựng theo định hướng: Xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ, thận trọng nhằm hạn chế rủi ro, kiểm soát dòng vốn đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tránh tác động tiêu cực đến cán cân thanh toán quốc tế và thị trường ngoại hối; Tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư là tổ chức và cá nhân trong việc tham gia hoạt động đầu tư; Đảm bảo phù hợp với khả năng quản trị rủi ro và năng lực tài chính của nhà đầu tư, phù hợp với yêu cầu và mục tiêu quản lý nhà nước về hoạt động này.
Chưa nên áp dụng rộng rãi cho cá nhân
Đối tượng điều chỉnh của Nghị định gồm có: (i) Tổ chức kinh tế thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam; (ii) nhà đầu tư là cá nhân có quốc tịch Việt Nam được tham gia các chương trình cổ phiểu thưởng của của tổ chức kinh tế ở nước ngoài thực hiện theo quy định của NHNN.
Lý giải điều này, NHNN Việt Nam cho biết, do thực tế kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, thu nhập quốc dân đầu người còn ở mức rất thấp so với mặt bằng các nước trong khu vực, kinh nghiệm đầu tư và kiến thức về thị trường quốc tế của cá nhân trong lĩnh vực này chưa vẫn còn hạn chế và chưa phát triển như các nước có điều kiện tương đồng trong khu vực.
Trong khi kinh nghiệm quản lý của một số nước trong khu vực cũng cho thấy việc cho phép cá nhân đầu tư gián tiếp ra nước ngoài phải ở giai đoạn đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, có nền tảng kinh tế phát triển bền vững, ổn định, quy mô dự trữ ngoại hối lớn, thu nhập quốc dân đầu người cao.
“Do đó, định hướng chung khi xây dựng Nghị định là hoạt động đầu tư gián tiếp của cá nhân chưa nên được áp dụng rộng rãi”, NHNN Việt Nam nhấn mạnh.
Tuy nhiên, trên thực tế thời gian qua, một số DN có vốn đầu tư nước ngoài đã có đề nghị với Chính phủ Việt Nam và NHNN cho phép áp dụng chương trình thưởng cho nhân viên, người lao động Việt Nam bằng cổ phiếu do công ty mẹ của DN đó phát hành ở nước ngoài (gọi tắt là chương trình cổ phiếu thưởng).
Chương trình cổ phiếu thưởng có thể được thực hiện dưới 2 hình thức: (i) Nhân viên, người lao động Việt Nam được nhận phần thưởng bằng cổ phiếu được phát hành ở nước ngoài; (ii) Nhân viên, người lao động Việt Nam được hưởng quyền mua cổ phiếu ở nước ngoài với cơ chế ưu đãi nhất định. Về bản chất, đây là hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
Tuy nhiên, đây là chế độ ưu đãi của tổ chức nước ngoài dành cho người lao động Việt Nam, rủi ro từ hoạt động này là rất thấp và đây cũng là quyền lợi hợp pháp của cá nhân người lao động.
Do đó, đối với nhà đầu tư là cá nhân, Nghị định quy định chỉ cho phép thực hiện đầu tư gián tiếp ra nước ngoài dưới hình thức tham gia chương trình cổ phiếu thưởng theo quy định của NHNN.
Nghị định được kết cấu gồm 5 Chương và 41 Điều, tập trung quy định các vấn đề về phương thức đầu tư (tự doanh đầu tư, ủy thác đầu tư); đối tượng; nguyên tắc quản lý thông qua công cụ, nguồn vốn, điều kiện thực hiện tự doanh đầu tư và ủy thác đầu tư; quyền hạn và trách nhiệm của các bộ ngành liên quan trong việc quản lý hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, quyền hạn, trách nhiệm của nhà đầu tư và các bên liên quan trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài; thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư ra nước ngoài... |
Chỉ được đầu tư dưới 2 hình thức và phải đăng ký hạn mức
Qua tham khảo kinh nghiệm quốc tế và căn cứ quy định tại Luật Đầu tư và kinh nghiệm quốc tế, dự thảo Nghị định quy định 2 phương thức đầu tư.
Thứ nhất là Tự doanh đầu tư ra nước ngoài. Tự doanh đầu tư ở đây được hiểu theo nghĩa nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn của chính mình, kinh doanh cho chính mình, theo đó, khi đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, nhà đầu tư có thể thực hiện qua hai cách: tự mua bán, chứng khoán, các giấy tờ khác ở nước ngoài cho chính mình; hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài.
Thứ hai là Ủy thác đầu tư ra nước ngoài. Theo phương thức này, nhà đầu tư giao vốn bằng ngoại tệ cho tổ chức nhận ủy thác ở trong nước thực hiện đầu tư gián tiếp ra nước ngoài thông qua hợp đồng ủy thác đầu tư.
Tuy nhiên, nhà đầu tư chỉ được đầu tư gián tiếp ra nước ngoài vào các công cụ đầu tư do NHNN Việt Nam quy định. Tổ chức tự doanh, tổ chức nhận ủy thác là NHTM, công ty tài chính tổng hợp chỉ được tự doanh đầu tư, nhận ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài vào công cụ đầu tư là trái phiếu, các công cụ trên thị trường tiền tệ, không được thực hiện tự doanh đầu tư, nhận ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài vào cổ phiếu và các công cụ đầu tư khác.
Bên cạnh đó, các tổ chức chỉ được đầu tư gián tiếp ra nước ngoài trong tỷ lệ đầu tư an toàn do Bộ Tài chính hoặc do NHNN Việt Nam quy định.
Tổ chức tự doanh phải đăng ký hạn mức tự doanh đầu tư gián tiếp ra nước ngoài với NHNN Việt Nam; chỉ được đầu tư gián tiếp ra nước ngoài sau khi được NHNN Việt Nam xác nhận đăng ký hạn mức tự doanh bằng văn bản và chỉ được đầu tư gián tiếp ra nước ngoài trong hạn mức tự doanh do NHNN Việt Nam xác nhận đăng ký.
Tổ chức nhận ủy thác phải đăng ký hạn mức nhận ủy thác đầu tư với NHNN Việt Nam; chỉ được nhận ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài sau khi được NHNN Việt Nam xác nhận đăng ký hạn mức nhận ủy thác bằng văn bản và chỉ được nhận ủy thác đầu tư trong hạn mức nhận ủy thác do NHNN Việt Nam xác nhận đăng ký.