“Mềm dẻo” hơn trong cơ chế cho vay
Theo thống kê của NHNN Việt Nam, tính đến 22/5, tín dụng đối với nền kinh tế chỉ tăng có 2,29% so với cuối năm 2012. Sự chậm chạp này của tín dụng không phải do lãi suất, bởi lãi suất cho vay hiện đã giảm về ngang bằng, thậm chí còn thấp hơn năm 2007 - là năm trước khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. Nguyên nhân khiến tín dụng bị “tắc” cũng đã được phân tích nhiều.
Để cho vay đạt hiệu quả, cần bám sát sự vận động của dòng tiền
Theo đó, về khách quan là do nền kinh tế đang bị “đau ốm”, nên sức hấp thụ vốn bị hạn chế. Nguyên nhân này không thể khắc phục ngay trong ngắn hạn. Câu chuyện là chúng ta cần tập trung tháo gỡ ở khâu chế độ, thủ tục cho vay của ngân hàng đối với DN.
Theo phản ánh của rất nhiều DN, tín dụng tắc đầu ra nằm ngay ở cơ chế tài sản đảm bảo. Tư duy của cán bộ tín dụng ngân hàng là rất sợ mất vốn, rồi lâm vào cảnh dễ bị quy kết hình sự “thiếu tinh thần trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng” như thực tiễn đã từng diễn ra.
Bởi vậy, tài sản đảm bảo khoản vay dưới nhãn quan của cán bộ tín dụng là một yếu tố không thể thiếu của một thương vụ cho vay đạt chuẩn. Từ đó, dù muốn hay không trong tác nghiệp cho vay, họ có phần lơ là việc đi sâu bám sát để kiểm tra, kiểm soát đối với bên vay nợ.
Thời trước đây, ngân hàng cho vay chủ yếu bằng tín chấp; dòng vốn tín dụng được theo dõi sát sao; cơ chế hàng tháng hay quý ngân hàng lập bản tính toán tài sản đảm bảo của DN vay vốn rất kín kẽ; vật tư hàng hóa tồn kho cán bộ tín dụng nắm rành rọt khi làm đảm bảo nợ…
Vì vậy theo chúng tôi, tuy vẫn duy trì chế độ thế chấp tài sản khi cho vay, nhưng hoạt động tín dụng phải đi sâu đi sát tại từng cơ sở vay nợ, theo dõi chặt chẽ chu kỳ vận động của đồng tiền thực tế diễn ra so với những gì thường đã được giải thích khá trôi chảy theo hồ sơ phương án vay ban đầu.
Cần đánh giá tín nhiệm đều đặn, để tạo điều kiện cho các DN có quan hệ tín dụng phấn đấu vay trả tốt, tạo lập chữ tín trên thương trường mới là mục tiêu chúng ta mong đợi.
Còn việc xếp loại tín nhiệm DN, nên có sự rộng mở hơn, chia sẻ với DN trong thời kỳ khó khăn hiện nay. Nhanh chóng xác lập loại DN đạt chuẩn tín nhiệm cao, hay được bảo lãnh, khi vay vốn đều được hưởng cơ chế tín chấp. Còn đối với những DN mới quan hệ vay mượn hay sự tín nhiệm chưa đạt chuẩn và thực tại sản xuất kinh doanh của họ có những yếu kém nào đó, thì đương nhiên vẫn phải áp cơ chế thế chấp tài sản đảm bảo nợ.
Ở đây, việc đánh giá tài sản đảm bảo nợ cần vô tư khách quan, không hạ thấp quá mức mà cũng không thể nâng cao vô lối. Về thủ tục cho vay, không nhất thiết phải hoàn thành công đoạn thế chấp tài sản có công chứng, rồi mới tiến hành việc giải ngân… Và khâu quan trọng của hoạt động tín dụng vẫn là sự đi sâu bám sát sự vận động của các dòng tiền. Luôn chia sẻ cùng DN trong điều kiện kinh tế khó khăn hiện nay càng cần như vậy.
Chẳng hạn, trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế hiện nay, hàng tồn kho quá cao chưa tìm được đầu ra, thì ngân hàng càng đi sâu, sát cánh cùng DN để xử lý hàng tồn kho thu tiền về, bằng cách tìm giải pháp mở rộng cho vay kích cầu đối với các nhu cầu của thị trường từ phía khách mua hàng.
Hoặc trong trường hợp thua lỗ, ngân hàng nên đi cùng DN để cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Ở đây có thể thực thi chính sách tín dụng “lấy nợ nuôi nợ” – tức ngân hàng cho vay mới để tạo điều kiện cho DN phất lên, góp phần tích lũy trả nợ cũ…
Được biết cơ chế cho vay tín chấp NHNN đã cho thực thi từ lâu, nhưng vì điều kiện có khủng hoảng kinh tế - tài chính, nhiều DN làm ăn gặp khó khăn, vốn vay ngân hàng luân chuyển chậm, lại phát sinh nợ quá hạn, nên tư tưởng thủ thế, giữ an toàn trách nhiệm đã và đang ngự trị trên thương trường tín dụng Việt Nam, làm cho cơ chế cho vay tín chấp không mở rộng ra được!
Nói gì thì nói, cuối cùng xin khẳng định rõ ràng lại là việc chuyển từ thủ tục cho vay nặng về thế chấp tài sản đảm bảo hiện nay, sang mở rộng diện cho vay tín chấp đối với những DN được thị trường đánh giá là có tín nhiệm trong các quan hệ kinh tế - xã hội nói chung, cũng như trong các quan hệ tín dụng đối với Ngân hàng nói riêng.
Đây là một yêu cầu khách quan, phù hợp với xu thế hội nhập ngày càng tăng. Và, với yêu cầu sửa đổi chế độ thủ tục cho vay theo hướng nói trên, cần tránh sự ngộ nhận là các NHTM Việt Nam đang hạ chuẩn tín dụng, để gỡ khó cho các DN và làm tan băng dòng vốn tín dụng, vì lợi ích cục bộ của chính ngân hàng!
Nguyễn Duy Lộ