Nhân chuyện quản Grab, Uber: Bước lùi của chính sách?
Loay hoay định nghĩa
Cách hành xử thiếu nhất quán, thậm chí có phần thụt lùi đối với mô hình kinh tế nền tảng được thể hiện khá rõ trong xu hướng quản lý ngành vận tải, xung quanh trường hợp Uber và Grab.
PGS-TS. Ngô Trí Long, Chuyên gia kinh tế dẫn chứng, cuối năm 2014 và đầu năm 2015, khi Uber mới vào Việt Nam, Bộ Tư pháp cho rằng mô hình kinh doanh của Uber là dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ, còn Bộ Kế hoạch và Đầu tư coi nền tảng Uber là dịch vụ kết nối vận tải, Bộ Công thương coi là ứng dụng sàn giao dịch thương mại điện tử.
Rủi ro chính sách có thể khiến các DN khoa học công nghệ rút lui |
Tuy nhiên tại dự thảo mới nhất Nghị định về Kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ôtô, thay thế Nghị định số 86/2014/NĐ-CP do Bộ Giao thông Vận tải biên soạn đã đưa ra định nghĩa mới về kinh doanh vận tải, trong đó coi phần mềm kết nối nếu tham gia vào công đoạn quyết định giá, điều hành xe sẽ là hoạt động kinh doanh vận tải.
Với định nghĩa này, các công ty cung cấp dịch vụ ứng dụng kết nối sẽ đều được coi là đơn vị kinh doanh vận tải và do đó, phải tuân thủ toàn bộ các điều kiện và quy định về sở hữu phương tiện, thuê người lao động…
“Đây là điều đáng buồn, theo quan điểm của tôi, bởi nó trái với bản chất mô hình kinh tế nền tảng. Nếu thay thế định nghĩa như vậy sẽ nảy sinh 2 vấn đề, thứ nhất là triệt tiêu chuyên môn hoá và ảnh hưởng phát triển kinh tế nền tảng; thứ hai là gây ra chồng chéo trong thực hiện pháp luật”, ông Long bày tỏ.
PGS-TS. Ngô Trí Long lưu ý, dù còn nhiều lúng túng trong quản lý hoạt động của các mô hình như Uber, Grab, song phần lớn các nước trong khu vực không coi nền tảng kết nối xe là dịch vụ vận tải. Việc thay đổi định nghĩa sẽ gây tác động tiêu cực tới phát triển nền tảng, làm giảm thế mạnh của các đơn vị công nghệ là xử lý hệ thống dữ liệu lớn và kết hợp với trí tuệ nhân tạo để đề xuất phương tiện và giá.
Ông Long nhấn mạnh, việc buộc các doanh nghiệp công nghệ phải đáp ứng điều kiện của toàn bộ quá trình kinh doanh vận tải là một sự bất công, không hợp lý. Vì vậy, quy định này không những làm biến đổi bản chất hoạt động của nền tảng, mà còn triệt tiêu phần lớn những ưu điểm công nghệ mang lại. Quy định này sẽ gây tác động tiêu cực tới cả các nền tảng trong nước, như Vato, Emddi, Gonow (của Viettel) và T.Net (của FTP), lẫn nền tảng ngoại (Grab, Fastgo...).
“Trong xu hướng hiện nay, một nền tảng sẽ cung cấp kết nối cho nhiều ngành, thay vì chỉ trong lĩnh vực vận tải hay giao nhận hàng. Nếu tất cả các ngành đều coi một nền tảng thuộc về lĩnh vực của mình, thì ngày mai khi xuất hiện một nền tảng mới thì chúng ta sẽ lại phải mất tới 2 - 3 năm nữa để tranh cãi, loay hoay tìm câu trả lời”, ông Long khuyến nghị.
Cần quan điểm nhất quán
Tổng Thư ký Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) Trần Trọng Tuyến lo ngại, sau một thời gian hoạt động, mô hình kinh tế nền tảng đã dần bộc lộ một số khiếm khuyết cần đến sự can thiệp của Nhà nước để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, người lao động, chống thất thu thuế với các nền tảng hoạt động xuyên biên giới.
Trong bối cảnh đó, dường như Việt Nam chưa có một sự tiếp cận chính sách và ứng xử nhất quán, cũng như đang gặp phải nhiều khó khăn trong việc xây dựng các quy định đối với các mô hình kinh tế mới này.
Vì vậy, đã đến lúc Chính phủ cần có quan điểm nhất quán và rõ ràng về mô hình kinh tế nền tảng. Đồng thời, cần có một tầm nhìn bao quát cũng như có cơ chế phối hợp liên ngành tốt hơn khi soạn thảo chính sách liên quan đến kinh tế nền tảng. Việc ban hành chính sách rời rạc theo từng ngành, thậm chí thiếu nhất quán sẽ làm ảnh hưởng đến mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số.
Ông Ngô Vĩnh Bạch Dương, Trưởng Phòng Pháp luật kinh tế, Viện Nhà nước và Pháp luật cũng nêu ra một số vấn đề cốt lõi về chính sách và pháp luật đối với các nền tảng.
Theo ông Dương, ứng xử của các quốc gia đối với các dịch vụ mới trên internet còn khác biệt, thậm chí trái ngược nhau, do việc tiếp cận dịch vụ mới trong khuôn khổ WTO còn mơ hồ, chưa hoàn thiện và phụ thuộc nhiều vào các cuộc đàm phán thương mại cũng như bối cảnh tại từng quốc gia.
Tuy nhiên, ông nhấn mạnh: “Chắc chắn một điều được thừa nhận rộng rãi rằng, các doanh nghiệp không nhất thiết phải thực hiện tất cả các công đoạn của một chuỗi cung ứng dịch vụ, mà có thể lựa chọn một hoặc một số các công đoạn để đầu tư. Đây cũng chính là lý do để kinh tế nền tảng có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm qua trên phạm vi toàn cầu”.
Từ đó, ông Dương lưu ý, trong quá trình quản lý các nền tảng, Nhà nước cần chú trọng xem xét các điều kiện giao dịch chung, đặc biệt trong việc phân định trách nhiệm các bên để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và bảo vệ các đối tác yếu thế trong giao dịch.
Đánh giá về các ứng xử chính sách gần đây đối với mô hình kinh tế nền tảng, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, các cơ quan quản lý vẫn đang loay hoay tìm cách nhét những hành vi mới vào khuôn khổ quy định, tư duy cũ.
Chia sẻ quan sát rằng hệ thống hành chính cũ đang phải đối mặt với các chuyển động quá nhanh về công nghệ, ông Tuấn cho biết, thời gian để cơ quan quản lý của Việt Nam ban hành 1 Nghị định điều chỉnh mới có thể mất 1-2 năm, nhưng khi ra đời thì nó lại nhanh chóng lạc hậu, bởi công nghệ đã thay đổi, vì vậy cách thức quản lý luôn cũ so với các nước.
Rõ ràng trong dòng chảy mạnh mẽ của khoa học công nghệ, Việt Nam đang đứng trước những thách thức rất lớn và rất khác để trở thành một quốc gia số. Chúng ta không thiếu yếu tố thị trường và tài năng, cái thiếu là chính sách. Rủi ro sai lầm của chính sách có thể làm thay đổi đường đi của vốn đầu tư hay dẫn tới sự rời bỏ của tập đoàn lớn trong lĩnh vực công nghệ, bỏ lỡ cơ hội đi nhanh trong lĩnh vực này.
“Việt Nam không thể chần chừ, không được chậm chạp, không nên trái quy luật chung của thế giới trong ban hành chính sách và thực hiện chính sách thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ, mở đường cho sự phát triển của rất nhiều DN non trẻ tiềm năng trong lĩnh vực này”, ông Đậu Anh Tuấn quả quyết.
Theo Geoffrey G. Parker, tác giả cuốn sách “Platform Revolution” (Cuộc cách mạng nền tảng), nền tảng là một giao dịch dựa trên việc kích hoạt sự tương tác tạo nên giá trị giữa các nhà sản xuất bên ngoài và người tiêu dùng. Nó cung cấp một cơ cấu hạ tầng mở và có tính hỗ trợ cho những tương tác này và thiết lập các trạng thái điều hành chúng.
Mục đích tổng thể của nền tảng là tạo ra sự tương thích hoàn toàn giữa người dùng với sự thuận lợi trong việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ hay tiền tệ, qua đó kích hoạt việc tạo ra giá trị cho tất cả những người tham gia.