Quy hoạch đường "độc đạo"
Bên cạnh đó, đề án trọng tâm phát triển đến năm 2015, toàn thị trường có khoảng 250.000 thiết bị chấp nhận thẻ được lắp đặt với số lượng giao dịch đạt khoảng 200 triệu giao dịch/năm.
Các nhà cung cấp dịch vụ, sản xuất hàng hoá vẫn yêu thích thanh toán bằng tiền mặt mặc dù các đơn vị này đều có tài khoản tại ngân hàng. (Ảnh: MH)
So với con số tính đến đầu quý I/2012, 42 triệu thẻ ATM đã được phát hành (trong đó 94% thẻ nội địa và 6% thẻ quốc tế) chiếm khoảng 20% dân số cả nước, 13.500 cây ATM và khoảng 70.000 POS thanh toán, mục tiêu của đề án thanh toán không dùng tiền mặt không dễ chạm đích. Nhất là khi, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt chỉ được khuyến khích sử dụng mà chưa có những biện pháp nắn dòng mạnh vào phương thức thanh toán này. Số liệu từ phía NHNN Việt Nam cho biết, hiện có hơn 95% các đơn vị thuộc các cơ quan quản lý Nhà nước và DN Nhà nước đã thực hiện trả lương qua tài khoản. Nhưng… đa số người lao động vẫn chủ yếu dùng thẻ để rút tiền mặt từ các cây ATM.
Nhìn sang phía các nhà cung cấp dịch vụ, sản xuất hàng hóa, mặc dù hầu hết các đơn vị này đều có tài khoản tại ngân hàng, song họ vẫn yêu thích thanh toán bằng tiền mặt. Đơn giản vì DN không muốn mất phí sử dụng thiết bị thanh toán mà ngân hàng và các công ty mạng cung cấp. Ý chí mạnh hơn là trốn thuế, khi các giao dịch bằng tiền mặt không cần hóa đơn, kê khai… Các thanh toán không dùng tiền mặt vì thế chỉ dùng cho các DN "chuyên nghiệp" hoặc có khoảng cách về địa lý, thiếu người đi thu tiền… Tuy nhiên, dù có "chuyên nghiệp" đến mấy, ở khía cạnh này, khía cạnh kia, các DN vẫn muốn lách lấy tiền mặt để trang trải cho những khoản ngoài chi phí sản xuất hay người đời thường gọi là tham ô, tư túi. Những nhu cầu này được hợp thức hóa bằng các giao dịch mà ngân hàng chỉ có quyền chi. Ngay cả các khoản vay ngân hàng để thực hiện dự án, vẫn có nhiều DN và tổ chức thụ hưởng muốn rút tiền mặt. Có lẽ cũng vì nhìn thấy điều này mà mới đây NHNN đã ban hành Thông tư 09/2012/TT-NHNN quy định về việc sử dụng các phương tiện thanh toán để giải ngân vốn vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Thông tư này như một mũi tên trúng hai đích, giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng theo mục đích thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt. Lúc này việc trao cho DN phương thức tiền mặt hay không tiền mặt dồn sang vai các TCTD với số tiền giải ngân tối đa cho một lần dưới 100 triệu đồng. Trong bối cảnh "người khôn, kẻ khó" như những tháng cuối năm 2011, DN khó khăn lắm mới vượt qua cửa ngân hàng để vay vốn kinh doanh, việc áp đặt phương thức thanh toán của ngân hàng xem ra có hiệu dụng bởi nó như điều kiện đủ trong bản hợp đồng tín dụng. Song khi cánh cửa tín dụng rộng mở hơn, ngân hàng phải đi tìm khách hàng, DN có nhiều quyền lựa chọn hơn, biện pháp này khó phát tác. Chưa kể mức rút dưới 100 triệu đồng/lần giải ngân tưởng không nhiều, nhưng nếu DN đăng ký giải ngân theo tiến độ công trình, dự án và ngày nào cũng rút một khoản tối đa theo quy định này, con số tiền mặt rút ra quả không nhỏ trong một tháng chưa tính tới một năm. Hay nói cách khác, Thông tư 09/2012/TT-NHNN vẫn còn kẻ hở khá rộng cho các DN muốn rút tiền mặt. Và khi đã chi tiền mặt, dù người thụ hưởng hay DN có hóa đơn chứng minh mục đích sử dụng, cũng không thể chắc chắn họ đã chi đúng và đủ như cam kết.
Câu chuyện lúc này lại rơi vào vòng luẩn quẩn, người lao động không có tài khoản tại ngân hàng nên phải trả tiền mặt đã đành, nhưng bên thụ hưởng có tài khoản tại ngân hàng, hoặc tại các ngân hàng khác lý do gì để phải chi tiền mặt? Nên chăng cần có những quy định cụ thể hơn để hướng các giao dịch vào con đường độc đạo thanh toán không dùng tiền mặt thay vì kiểu này cũng được mà kiểu kia cũng được.
Minh Ngọc