Rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng
Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, theo nhà kinh tế học Paul Krugman, rủi ro đạo đức được hiểu là “trường hợp khi một bên đưa ra các quyết định liên quan tới mức độ chấp nhận rủi ro, trong khi bên kia phải chịu tổn thất nếu các quyết định đó thất bại” (Paul, 2009).
Có 4 nguyên nhân phát sinh rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng:
Thứ nhất, rủi ro đạo đức tồn tại do chính sự nới lỏng kiểm soát, thiếu các chính sách cho vay, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, khoa học từ phía ngân hàng. Trên thực tế, trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, người đi vay luôn nắm được nhiều thông tin hơn người cho vay về quá trình sử dụng vốn vay, họ có thể che giấu thông tin và thực hiện những hoạt động gây rủi ro cho khoản vốn vay mà người cho vay không mong muốn. Đây chính là hành vi rủi ro đạo đức từ phía khách hàng. Nếu các ngân hàng thiếu sự giám sát chặt chẽ thì xu hướng rủi ro đạo đức từ phía khách hàng sẽ gia tăng, gây nguy cơ tổn thất nhiều hơn cho các ngân hàng. Ngoài ra, nguyên nhân rủi ro đạo đức xuất phát từ việc lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ, không đánh giá đúng năng lực cũng như phẩm chất, tư cách đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng. Từ đó dẫn đến sự thông đồng giữa cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng với khách hàng, gây thiệt hại đến lợi ích chung của ngân hàng.
Thứ hai, rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh ngân hàng xuất phát từ chính sự thiếu hiểu biết của nhà quản trị ngân hàng. Với thị trường tài chính ngày càng phát triển, nhiều sản phẩm tài chính mới phức tạp và đa dạng ra đời như các sản phẩm phái sinh, chứng khoán hóa… đòi hỏi ban điều hành các ngân hàng phải kịp thời nắm bắt và hiểu rõ bản chất và mức độ rủi ro của các sản phẩm tài chính, đồng thời có những chính sách quản trị rủi ro cũng như đủ nguồn lực về tài chính và nhân lực nhằm kiểm soát được mức độ rủi ro của sản phẩm tài chính được áp dụng. Tuy nhiên, thực tế các cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy nhiều ban lãnh đạo ngân hàng thậm chí không hiểu rõ các sản phẩm tài chính phức tạp, không đưa ra được các chính sách quản lý và kiểm soát phù hợp và cốt lõi là họ vẫn thực hiện đầu tư các sản phẩm tài chính đó với cách thức kiểm soát không phù hợp. Ngoài ra, việc áp dụng những sản phẩm phái sinh tại một số ngân hàng trên thế giới cũng nhằm mục đích che giấu những khoản nợ xấu.
Thứ ba là do sự thiếu giám sát từ phía cơ quan chính phủ, cổ đông và người gửi tiền. Người gửi tiền thường tin tưởng vào mức độ tín nhiệm của các NHTM và khả năng hoàn trả các khoản tiền gửi; đồng thời tin tưởng vào khả năng thực hiện bảo hiểm của các công ty bảo hiểm tiền gửi. Từ góc độ ngân hàng, danh tiếng và vị trí trong xã hội được coi là những tiêu chí cơ bản nhằm xây dựng hình ảnh của ngân hàng trong mắt người gửi tiền. Các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở thế kỷ 19, đầu thế kỉ 20 và 21 đã minh chứng rằng thậm chí đối với các ngân hàng có mức độ thanh khoản tốt cũng không thể thoát khỏi ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính làm cho người gửi tiền rút tiền ồ ạt. Thực tế cho thấy hàng loạt các NHTM mất khả năng thanh toán mặc dù có tham gia bảo hiểm tiền gửi. Khi có sự tham gia của bảo hiểm tiền gửi, mức độ rủi ro đạo đức không chỉ dừng lại ở hành vi của từng nhân viên ngân hàng mà ở chính sách kinh doanh với mức độ chấp nhận mạo hiểm cao trong đầu tư. Ông Gary Stem, chủ tịch của ngân hàng dự trữ liên bang Minneapolis, đã nhận định như sau: “khi một cá nhân hoặc một tổ chức được bảo hiểm, thì các cá nhân hoặc tổ chức này sẽ có động cơ đầu tư vào các hoạt động rủi ro hơn các cá nhân hoặc các tổ chức không được bảo hiểm” (Delhaise, 1998). Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng với khẩu ngữ “rủi ro cao lợi nhuận cao” thì động lực như ông Gary Stem nói càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Như vậy, những hệ thống tài chính được giám sát chặt chẽ sẽ giúp giảm mức độ thiệt hai cho ngân hàng, cũng như giúp cho cơ quan quản lý dự đoán hoặc ngăn chặn được trước những sự cố xảy ra.
Thứ tư, rủi ro đạo đức của các tổ chức tài chính tín dụng nảy sinh từ chính sự hậu thuẫn của chính phủ nhằm cứu giúp các tổ chức tài chính tín dụng lớn thoát khỏi sự sụp đổ, đây là một trong những yếu tố khiến các tổ chức này thực hiện các hành vi đầu tư ẩn chứa rủi ro đạo đức. Có những nghiên cứu cho rằng, trong một thị trường thậm chí không có hệ thống bảo hiểm tiền gửi chính thức thì bàn tay can thiệp của chính phủ cũng gây nên rủi ro đạo đức (Thomas, 2002). Bài học thực tế tại nhiều cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy, với nhiều chính sách nới lỏng quản lý của chính phủ nhằm giao quyền tự chủ và tăng tính cạnh tranh cho các tổ chức tín dụng, đồng thời với ý thức rằng chính phủ sẽ sẵn sàng ra tay cứu trợ cho các tổ chức tín dụng quy mô lớn nhưng đã mất khả năng thanh toán nhằm duy trì niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng (too big to be fail), nhiều tổ chức tín dụng đã có những chính sách đầu tư rủi ro và nới lỏng điều kiện tín dụng với khách hàng vay vốn. Đây chính là minh chứng của rủi ro đạo đức trong NHTM. Nhưng hậu quả trầm trọng hơn là, một khi các tổ chức tín dụng này mất khả năng thanh toán, nhưng chính phủ vẫn ra tay cứu giúp hoặc vẫn cho các tổ chức này tồn tại và kinh doanh, thì mức độ rủi ro đạo đức trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết, vì khi đó các tổ chức tín dụng này trở thành những con bạc mất trắng, sẽ liều lĩnh đầu tư vào các hoạt động vô cùng rủi ro với hi vọng cứu vãn tình thế và biết rằng mình chẳng còn gì để mất! Như vậy, việc loại bỏ bảo hiểm tiền gửi cũng không giải quyết được tình trạng rủi ro đạo đức.
Vũ Thanh Hà - Trần Thu Hường (Khoa Ngân hàng – Học viện NH)