Thẳng thắn và đầy trách nhiệm
Chủ động gỡ khó trực tiếp cho DN
Tại phiên chất vấn Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, NHNN đã triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn và tạo điều kiện cho DN tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng một cách hiệu quả.
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình trả lời chất vấn trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Cụ thể, NHNN đã liên tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành và lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND của tổ chức, cá nhân tại TCTD; quy định và điều chỉnh giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với 4 lĩnh vực ưu tiên gồm: nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, DNNVV, ngành công nghiệp hỗ trợ phù hợp với diễn biến lạm phát, kinh tế vĩ mô và chủ trương giảm nhanh mặt bằng lãi suất cho vay.
Bên cạnh đó, chỉ đạo các TCTD tích cực chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên. Các TCTD đã và đang tích cực triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn và triển khai nhiều chương trình cho vay lãi suất thấp đối với các lĩnh vực ưu tiên: cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, DNNVV, công nghiệp hỗ trợ (lãi suất 10-13%/năm); áp dụng lãi suất hợp lý đối với những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, phương án sản xuất kinh doanh khả thi; tích cực rà soát, điều chỉnh lãi suất cho vay của các khoản nợ cũ về mức tối đa 15%/năm.
Ngoài ra, NHNN đã phối hợp với các địa phương tổ chức Hội nghị kết nối ngân hàng và doanh nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quan hệ tín dụng giữa TCTD và DN trên địa bàn; chủ động phối hợp, làm việc trực tiếp với từng bộ, ngành nhằm nắm bắt khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp tháo gỡ, hỗ trợ cụ thể, phù hợp đối với từng lĩnh vực. Đặc biệt là xử lý vấn đề hàng tồn kho để có cơ sở mở rộng tín dụng cho DN.
Nhờ triển khai đồng bộ, chủ động các giải pháp nêu trên, nên sau 5 tháng tăng trưởng âm, tính đến ngày 30/7/2012, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đã tăng 1,02% so với 31/12/2011; mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh với mức giảm từ 3-6%/năm so với cuối năm 2011. Tính đến ngày 02/8/2012, tỷ trọng dư nợ cho vay với lãi suất trên 15%/năm trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng đã giảm từ mức 65% (trước ngày 15/7/2012) xuống còn 29,1%, trong đó, tỷ trọng giảm mạnh nhất là ở nhóm 5 NHTM Nhà nước với mức giảm từ 61% xuống 6,9%.
Nợ xấu chưa đến mức hốt hoảng
Nợ xấu ngân hàng trở thành vấn đề nóng tại phiên chất vấn Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình trong khuôn khổ phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khi Chủ nhiệm Ủy ban tài chính Ngân sách Phùng Quốc Hiển đặt vấn đề tại sao có sự khác nhau về nợ xấu khi các NHTM công bố là 4,47%, tương đương với 117 nghìn tỷ đồng, trong khi báo cáo của NHNN lại ở mức 8,6%, tương đương với 202 nghìn tỷ đồng. “Việc làm này có vi phạm Luật Các TCTD, và Luật Kế toán hay không”, ông Hiển đặt vấn đề.
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cho biết, tỷ lệ nợ xấu khác nhau không phải hôm nay mới phát sinh mà nó phát sinh trong suốt hoạt động của NHNN. Trong nội bộ hệ thống ngân hàng luôn song hành 2 số liệu: báo cáo của các TCTD và báo cáo giám sát của NHNN. Khi các tổ chức xếp hạng quốc tế, và kiểm toán quốc tế vào Việt Nam thì có số liệu thứ 3 đánh giá nợ xấu của Việt Nam.
Sở dĩ có con số khác nhau, bởi từ 2005 trở lại đây, NHNN ban hành Quyết định 493 quy định về việc phân loại nợ của các TCTD theo 5 nhóm với 2 yếu tố phân loại là định lượng và định tính. “Đôi khi vì mục tiêu lợi nhuận của mình, các TCTD không muốn xếp loại nợ vào nhóm cao hơn mà cố gắng tìm mọi cách che giấu khoản nợ đó để được trích lập dự phòng rủi ro thấp hơn. Dẫn tới những việc xếp nhóm và đánh giá nợ xấu của một TCTD có nhiều con số khác nhau. Chính vì thế có thể khẳng định số liệu nợ xấu của NHNN đưa ra là có căn cứ và khoa học nhất. NHNN điều hành theo số liệu đó”, Thống đốc cho biết.
Thống đốc cho rằng, NHNN biết rất rõ những TCTD đã sai phạm Quyết định 493. Tuy nhiên, phải thông qua công tác thanh tra tại chỗ mới phát hiện được việc này, còn qua giám sát từ xa, NHNN chỉ định lượng ở mức độ nhất định. Số lượng người của NHNN hiện không đủ để thanh ta thường xuyên, trực tiếp được mà chỉ có thể định kỳ.
NHNN cho rằng, vi phạm này phải xử lý nghiêm. “Chúng tôi thừa nhận rằng, trong thời gian dài các chế tài xử lý chưa phát huy được hiệu quả nhưng trong thanh tra 9 NH vừa rồi, chúng tôi đã làm rõ vấn đề này và yêu cầu các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro để nếu mất vốn buộc các cổ đông đưa vốn vào ngay các ngân hàng đó.
"Nợ xấu của chúng ta hiện nay chưa đến mức hốt hoảng, nguy kịch hóa. Trong thời kỳ khủng hoảng một số nước còn có tỉ lệ nợ xấu cao hơn ta nhiều”, ông Bình khẳng định.
Đồng thời, Thống đốc cho biết, đến nay các TCTD trong cả nước đã trích lập 70.000 tỷ đồng để dự phòng giải quyết “nợ xấu”. Thống đốc khẳng định trong nhiệm kỳ này sẽ nỗ lực đưa nợ xấu giảm xuống dưới ngưỡng 3%, tiến tới đảm bảo ngưỡng an toàn theo thông lệ quốc tế.
Thâu tóm cổ phiếu không thuộc quản lý của NHNN
Một vấn đề khác được nhiều đại biểu quan tâm là trong việc sáp nhập một số ngân hàng vừa qua, có hiện tượng thâu tóm các ngân hàng. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cũng băn khoăn về giải pháp NHNN bơm tiền để chi trả cho các ngân hàng yếu kém, hiệu quả cơ cấu lại hệ thống ngân hàng.
Trả lời vấn đề này, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho rằng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 254 phê duyệt Đề án Tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng, trong đó có các nội dung rất cụ thể và lộ trình thực hiện cụ thể. Các nội dung thực hiện trong năm 2011, 2012 đã triển khai và nhiều công việc đã hoàn thành, nhiều công việc đang trên tiến trình hoàn thành. Đến thời điểm này, NHNN có đầy đủ cơ sở để khẳng định những nội dung về tái cấu trúc ngân hàng trong năm 2011 và 2012 có điều kiện để hoàn thành đầy đủ.
Hiện các khoản vay với lãi suất dưới 15%/năm chiếm gần 76% tổng dư nợ. (Ảnh: ĐK)
NHNN đã báo cáo và đề nghị Chính phủ cho phép đưa vào chương trình tái cơ cấu lại 9 ngân hàng trong năm 2011 và 2012. Trong đó, sáp nhập 3 ngân hàng phía Nam, và tái cấu trúc lại 6 ngân hàng trong đó có 3 ngân hàng phía Bắc và 3 ngân hàng tiếp theo ở phía Nam. Trong số các đề án tái cấu trúc này, NHNN khẳng định, trừ việc sáp nhập 3 ngân hàng đầu tiên đã tiến hành, còn các đề án xử lý sáp nhập hay tự cho khôi phục phát triển của các TCTD khác đều phải trên cơ sở mang lại hiệu quả cao hơn, đảm bảo thanh khoản, tránh được đổ vỡ và đảm bảo bù đắp tòan bộ tổn thất của NH bị xử lý đã gây ra. Đến nay các đề án này đã được NHNN thẩm định và đang trình Chính phủ theo trình tự.
Riêng có ngân hàng hợp nhất 3 NHTMCP Sài Gòn, Đệ Nhất, Tín Nghĩa. Do trong quá trình thanh tra, NHNN phát hiện giữa 3 ngân hàng có sở hữu chéo và có sự vay mượn chéo với nhau hết sức phức tạp, do vậy nếu để một ngân hàng đứng ra xử lý riêng thì sẽ có sự chồng chéo. Trên cơ sở đó, NHNN mới xây dựng đề án với bước đi đầu tiên là gộp 3 ngân hàng này làm một để không còn sở hữu chéo như trước đây, sau đó mới bắt đầu triển khai đề án. Vì vậy, mới có chuyện dư luận cho rằng, 3 ngân hàng yếu này gộp vào nhau chỉ là phép cộng các ngân hàng yếu. NHNN khẳng định, đó chỉ là bước đi đầu tiên trong quá trình tái cấu trúc 3 ngân hàng này.
Sau khi 3 ngân hàng này sáp nhập thành NHTMCP Sài Gòn đã có những chuyển biến rất tích cực, từ chỗ mất khả năng thanh khoản thì nay đã đảm bảo khả năng thanh khoản, có HĐQT và hệ thống quản trị phù hợp với các quy định pháp luật, đã trả được một phần tiền cho vay tái cấp vốn của NHNN phục vụ thanh khoản cho ngân hàng này.
Liên quan đến chuyện có hay không việc thâu tóm ngân hàng, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho rằng, thâu tóm nếu có diễn ra trên thị TTCK, thì hoàn toàn theo pháp luật về chứng khoán. Trên TTCK, các TCTD niêm yết mua bán với nhau thì không hỏi ý kiến NHNN. Như vậy, có thể trong quá trình hoạt động một nhóm người mua cổ phiếu của ngân hàng nào đó trên TTCK để giữ tỷ lệ chi phối. NHNN chỉ có phát hiện khi đã chốt sổ. Nếu phát hiện ra tổ chức, cá nhân nào vượt quá phạm vi quy định thì UBCKNN yêu cầu tổ chức, cá nhân đó lập lại cho đúng tỷ lệ sở hữu theo quy định. Việc này không trực tiếp thông qua hệ thống ngân hàng mà là UBCKNN.
Trong việc xử lý 9 ngân hàng vừa qua, cũng có thể có màu sắc thâu tóm như có đại biểu đề cập vì trong Quyết định 254 đã được Chính phủ phê duyệt, bước đầu tiên là cho các ngân hàng tự nguyện, tự xây dựng phương án khôi phục. Chỉ khi nào không tự khôi phục, NHNN mới phải can thiệp trực tiếp. Thực tế, người mua bao giờ cũng muốn mua rẻ, người bán muốn bán đắt, nên giữa họ cũng có mâu thuẫn. Tuy nhiên, các TCTD đã thỏa thuận được với nhau và thời gian qua NHNN chưa phải xử lý biện pháp xử lý cưỡng chế nào.
Lãi suất giảm đúng thời điểm
Cho ý kiến về vấn đề điều hành lãi suất, đại biểu Phùng Văn Hùng (Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội) chất vấn: Việc giảm lãi suất như vừa qua là chưa kịp thời và gỡ khó khăn cho DN. Khi DN cần thì không giảm, chỉ khi DN lả đi mới giảm. Thống đốc khẳng định
“Việc điều hành lãi suất của NHNN phải dựa trên các cơ sở khoa học hết sức chặt chẽ không thể tùy tiện”. Đã có rất nhiều tổ chức quốc tế phàn nàn chúng ta hạ lãi suất quá nhanh có thể làm lạm phát quay trở lại. Nhìn lại thời điểm quý IV/2011, lúc đó cả Quốc hội và Chính phủ phấn đấu đưa lạm phát của Việt Nam xuống 1 con số, mà lúc đó con số 9% là một giấc mơ. Và chúng tôi đã thực hiện đúng nguyện vọng của đại biểu Quốc hội. Nếu giảm lãi suất ngay cuối năm 2011 bằng các biện pháp cung ứng tiền của NHNN thì chúng ta sẽ không có cơ sở để đạt được kiềm chế lạm phát như năm nay mà còn có thể bùng phát hơn nữa. Suy thoái kinh tế cộng với lạm phát tăng lên, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng suy thoái kép. Chúng ta hiện đang rất khó khăn nhưng không đến mức cực nguy hiểm khi nền kinh tế của nước ta vẫn còn tăng trưởng. Lạm phát đã được kiềm chế, nên việc hạ lãi suất của NHNN vừa rồi đã làm đúng thời điểm và làm hết sức quyết liệt, được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao về kết quả đạt được.
Liên quan đến vai trò của NHNN trong kiềm chế lạm phát. Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, Luật NHNN 2010, đã chỉ ra 2 vai của NHNN, một là NHTW của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng vai khác là thành viên của Chính phủ. NHNN vừa có nhiệm vụ kiềm chế lạm phát lại vừa có nhiệm vụ hỗ trợ phát triển kinh tế. Đây là chức năng vô cùng khó khăn đối với NHNN bởi 2 mục tiêu đó trong nhiều trường hợp mâu thuẫn lẫn nhau. Chúng tôi phải cân đối làm sao đồng thời thực hiện được 2 mục tiêu ở mức hợp lý chấp nhận được với nền kinh tế Việt Nam. Trong văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 11 cũng như Nghị quyết Trung ương 3 khẳng định rõ, đến những năm cuối của nhiệm kỳ này phấn đấu đưa lạm phát ở mức 5-6%, tăng trưởng kinh tế ở mức 7-8%. Với vai trò thống đốc NHNN, tôi có trách nhiệm chỉ đạo toàn ngành Ngân hàng phấn đấu thực hiện mục tiêu đó.
Mục tiêu này có xa hay không bằng thực tế của năm 2012 chúng ta thấy rằng có thể làm được. Ví như năm 2012, mục tiêu lạm phát của chúng ta là 9%, nhưng thực tế cho thấy, chúng ta có thể kiềm chế ở mức 6-7%, như vậy chúng ta đi sớm hơn so với lộ trình mà chúng ta đã đặt ra trước đây.
Còn về vai trò của NHNN trong kiềm chế lạm phát, chúng tôi thấy với 2 nhiệm vụ như trên cùng với việc phân định rổ đánh giá chỉ số lạm phát, thì trong rổ hàng hóa đó, CSTT đã chiếm quá một nửa. Hơn 40% còn lại phụ thuộc vào yếu tố khác, đặc biệt là giá cả thế giới, quản lý giá trong nước. Như 2011 khi chúng ta đạt chỉ tiêu lạm phát 18,3% thì lạm phát cơ bản mới chỉ hơn 9%, hay nói cách khác một nửa phụ thuộc vào giá trong nước và giá quốc tế. Yếu tố giá trong nước lại phụ thuộc vào lương thực thực phẩm, còn giá quốc tế lại phụ thuộc và xăng dầu và năng lượng.
Tiếp tục điều hành hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh, an toàn, hiệu quả Kết luận phiên chất vấn, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị Thống đốc sau chất vấn nhanh chóng chỉ đạo thực hiện các giải pháp và lộ trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát, từng bước nâng cao năng lực tài chính, quản trị và điều hành phát triển hệ thống lành mạnh, an toàn, hiệu quả. Tiếp tục điều hành công cụ chính sách tiền tệ, giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân và các DN tiếp cận được nguồn vốn với lãi suất thấp. Tập trung cho vay trong các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực nhà nước ưu tiên như tiêu thụ nông sản, thủy sản, mở rộng phạm vi tín dụng cho nông dân, nông thôn để phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp và ổn định đời sống của nông dân. Thực hiện chính sách tín dụng cho hộ cận nghèo. |
Minh Ngọc - Công Chiến