Xuất khẩu cà phê: Khó chồng khó
DN FDI: Không trồng vẫn được "hái"
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), tình hình tiêu thụ cà phê trên thế giới năm nay không mấy khả quan, xuất khẩu cà phê 2 tháng đầu năm đạt 312 ngàn tấn, tương đương 632 triệu USD, giảm 13% về lượng và 11,8% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Dự báo trong năm 2012, khối lượng cà phê xuất khẩu cả nước có thể chỉ đạt gần 985 ngàn tấn, giảm hơn 200 ngàn tấn so với con số dự báo của tháng trước. Bên cạnh đó, giá cà phê xuất khẩu giảm tương đối mạnh so với mức đỉnh cao của năm 2011 sẽ là nhân tố khiến giá trị xuất khẩu năm nay có thể giảm mạnh so với năm ngoái và chỉ dừng ở con số gần 2,2 tỷ USD.
Cũng theo Bộ NN&PTNT, hiện nay các DN có vốn đầu tư nước ngoài đang thu mua hơn 50% tổng sản lượng cà phê trong nước. Sự hiện diện của các DN này đáng ra là một tín hiệu tốt, bởi vì DN trong nước sẽ có thêm cơ hội cạnh tranh cũng như học hỏi kinh nghiệm, công nghệ tiên tiến của nước ngoài. Song việc các DN nước ngoài chiếm lĩnh phần lớn thị trường đang gây ra sự chèn ép không nhỏ đối với DN nội địa. Đặc biệt, trong khi Nhà nước và các DN trong nước đầu tư hàng tỷ đồng vào phát triển vùng nguyên liệu thì các DN nước ngoài được cho là không phải bỏ công mà vẫn được hưởng lợi khi họ thu mua được nhiều cà phê nguyên liệu.
Sở dĩ DN trong nước lép vế ngay trên sân nhà là do thiếu vốn, trong khi DN nước ngoài không những có tiềm lực tài chính mạnh mà còn không phải chịu mức lãi suất cao như ở Việt Nam. Cuối cùng, vấn đề lớn nhất của DN và của cả ngành cà phê vẫn là giá trị gia tăng còn thấp do việc sản xuất nhỏ lẻ, không đồng bộ và chưa chú trọng đúng mức tới khâu chế biến sau thu hoạch. Theo tính toán của các chuyên gia, trong chuỗi giá trị kinh doanh cà phê thì DN xuất khẩu có tỷ lệ lãi/chi phí thấp nhất (0,37%), trong khi tỷ lệ này ở người nông dân trông cà phê là 13,68% và các nhà máy rang, xay sản phẩm cao cấp lên đến 45,86%.
DN trong nước: Tự cứu?
Để tự đối phó với khó khăn trước khi chờ sự giúp đỡ từ phía Nhà nước, đầu tháng 3, Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa) vừa xây dựng đề án thành lập Quỹ bảo hiểm cà phê để trình Chính phủ. Theo đó, các DN thuộc Vicofa sẽ bị thu phí 2 USD/tấn cà phê xuất khẩu. Với sản lượng xuất khẩu của thành viên Vicofa khoảng 600 nghìn tấn/năm, dự tính mỗi năm quỹ sẽ thu được khoảng hơn 1 triệu USD nhằm hỗ trợ cho các DN thành viên và nông dân trồng cà phê.
Đây là một sáng kiến rất thiết thực của Vicofa khi tận dụng được sức mạnh tập thể của Hiệp hội. Song vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để sử dụng số tiền này có hiệu quả? Tại một cuộc họp mới đây với Bộ NN&PTNT, ông Lương Văn Tự - Chủ tịch Vicofa cho biết, nếu dùng quỹ để trợ giá cho DN khi giá thành thế giới giảm thì hiệu quả không đáng kể, lại không mang lại lợi ích lâu dài. Vì thế Vicofa thống nhất sử dụng phần lớn tiền quỹ này vào việc tái canh cây cà phê. Ông cảnh báo "nếu không đầu tư lại cho cây cà phê thì 10 năm nữa Việt Nam sẽ tụt xuống vị trí thứ 4, 5 về sản xuất và xuất khẩu cà phê". Hiệp hội quyết định 50-70% tiền quỹ sẽ được dùng để hỗ trợ DN và nông dân tái canh cây cà phê già cỗi, 30% hỗ trợ lãi vay tạm trữ cà phê, còn lại để dùng cho việc xúc tiến thương mại.
Tuy nhiên, đề án này cũng vấp phải sự phản đối không nhỏ từ phía các DN thành viên Vicofa. Vì thế, đáng ra việc thu phí đã bắt đầu từ 1/1/2012 nhưng Vicofa đã phải lùi thời hạn triển khai đến 1/10/2012. Các DN cho rằng với mức lợi nhuận thấp, hạn chế trong tiếp cận vốn cùng với tình hình kinh tế thế giới ảm đạm, mức phí 2 USD/tấn sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho DN. Đặc biệt, nếu số tiền này được dùng để đầu tư vào quá trình trồng cà phê thì sẽ bất công với DN trong nước vì họ là người phải hy sinh một phần lợi nhuận trong khi các DN nước ngoài, vốn không phải thành viên Vicofa và đang thu mua hơn 50% sản lượng cà phê, sẽ là đối tượng được hưởng lợi.
Mới đây, Bộ NN&PTNT phối hợp với Bộ Công Thương cũng xây dựng các tiêu chí mới, đưa xuất khẩu cà phê vào diện kinh doanh có điều kiện. Theo đó, hai tiêu chí chủ chốt để DN được phép xuất khẩu cà phê là phải có kinh nghiệm chế biến và xuất khẩu cà phê trong hai năm liên tiếp; và phải xuất tối thiểu 5.000 tấn/năm. Đây là một trong những động thái nhằm cải thiện tình trạng xuất khẩu và sản xuất manh mún vốn hiện hữu ở nhiều ngành nông sản tại Việt Nam, đặc biệt là cà phê.
Tuy nhiên, điều này rất khó để thực hiện, bởi theo số liệu thống kê, cả nước có 140 DN xuất khẩu cà phê thì ngoài 50 DN lớn, 90 DN còn lại chỉ xuất khẩu tổng cộng khoảng 30 nghìn tấn/năm. Mặt khác, điều kiện phải có kinh nghiệm hai năm trong ngành xuất khẩu cà phê cũng đồng nghĩa với việc DN mới không thể tham gia vào thị trường, gây ra lo ngại thị trường xuất khẩu cà phê sẽ bỏ lỡ những ứng cử viên có tiềm lực lớn về vốn và công nghệ chế biến.
Phải khẳng định rằng, việc thu phí để lập quỹ đầu tư cho dài hạn hay sàng lọc, thu hẹp số lượng DN để nâng cao về chất là hợp lý và đúng đắn, song chắc chắn không dễ dàng thực hiện. Và không chỉ có nỗ lực từ phía Hiệp hội hay Nhà nước, bản thân các DN cũng phải tìm cách tự vươn lên, nâng cao về quy mô và tính chuyên nghiệp nếu không muốn bị loại ra khỏi cuộc chơi toàn cầu.
Thúy Ngân