AEC với thị trường lao động Việt Nam: Cơ hội lớn, thách thức nhiều
Đường lớn mở ra
Sự ra đời của AEC trong năm 2015 sẽ tạo ra tăng trưởng việc làm thêm 10,5% vào năm 2025. Khi ra đời, AEC có quy mô GDP 2.200 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người 3.100 USD/năm. Tuy nhiên, lại có sự chênh lệch rất lớn, từ 1.000 USD/người (Campuchia, Myanmar) đến 40.000 USD/người (Singapore). Chính điều này có thể là một trong những nguyên nhân thúc đẩy di chuyển lao động trong khối.
Người lao động có cơ hội tương tác và nâng cao kinh nghiệm ở các nước tiên tiến trong khu vực |
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) dự báo: ở Việt Nam sẽ có sự gia tăng cơ hội việc làm mạnh mẽ ở những ngành như sản xuất gạo, xây dựng, vận tải, dệt may và chế biến lương thực. Trong giai đoạn 2010 - 2025, nhu cầu đối với việc làm cần tay nghề trung bình sẽ tăng nhanh nhất, ở mức 28%, lao động có trình độ kỹ năng thấp là 23% và lao động có kỹ năng cao sẽ tăng 13%. Như thế sẽ có thêm nhiều cơ hội cải thiện cuộc sống của hàng triệu người.
Theo ông Yoshiteru Uramoto, Giám đốc ILO khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam sẽ là một trong những nước hưởng lợi nhiều hơn từ việc hội nhập kinh tế khu vực sâu rộng, do nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào ngoại thương. Với quyết tâm và nỗ lực của mình, năng suất lao động của Việt Nam có thể tăng hơn gấp đôi vào năm 2025 so với năm 2010.
Cùng với sự gia tăng của các dòng đầu tư và thương mại, tốc độ thay đổi cơ cấu kinh tế hướng tới các ngành có giá trị cao hơn sẽ được đẩy nhanh. Điều này có thể giúp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường toàn cầu dựa trên năng suất lao động và kỹ năng nghề nghiệp tốt hơn.
Trong bối cảnh một thị trường chung, người lao động Việt Nam không những có nhiều cơ hội nghề nghiệp trong nước, mà còn mở rộng ra các thị trường khu vực. Người lao động có cơ hội tương tác và nâng cao kinh nghiệm, kỹ năng chuyên ngành ở các nước tiên tiến trong khu vực. Người lao động Việt Nam sẽ được “cọ sát” khi làm việc ở nhiều nơi, làm tăng tính linh hoạt, khả năng thích ứng với môi trường làm việc đa văn hóa, vốn dĩ là một điểm chưa mạnh của Việt Nam.
Nhưng đi thế nào?
Gia nhập AEC và các tổ chức quốc tế khác sẽ cho phép Việt Nam cạnh tranh trên thị trường toàn cầu trên cơ sở năng suất và kỹ năng của người lao động. Tuy nhiên, các lợi ích về kinh tế và việc làm từ AEC sẽ không được phân chia đồng đều. Nếu quản lý không tốt Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội mà AEC tạo ra.
Khi chính thức thành lập, AEC sẽ thực hiện tự do luân chuyển năm yếu tố căn bản: vốn, hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao động lành nghề. Các chuyên gia cho rằng, sự tự do này vừa là cơ hội cho thị trường lao động Việt Nam, đồng thời cũng là thách thức không nhỏ khi một lượng lớn lao động từ các nước AEC vào Việt Nam, và sẽ tạo nên cuộc cạnh tranh với lao động trong nước.
Ngoài ra, khi tham gia AEC, ngoài việc có kỹ năng nghề nghiệp giỏi, người lao động còn cần có ngoại ngữ và các kỹ năng mềm khác để có cơ hội tham gia làm việc tại các quốc gia trong AEC. Nếu người lao động Việt Nam không ý thức được điều này thì sẽ thua ngay trên sân nhà. Để thích ứng với hoàn cảnh mới, người lao động phải học hỏi, cập nhật kỹ năng mới.
Gần 50% lực lượng lao động Việt Nam vẫn đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, với năng suất và thu nhập thấp. Khoảng 3/5 lao động Việt Nam hiện đang làm các công việc dễ bị tổn thương. Nhìn chung, năng suất và mức tiền lương của Việt Nam khá thấp so với các nền kinh tế ASEAN khác như Malaysia, Singapore và Thái Lan.
Nâng cao chất lượng lao động để hội nhập
Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng thấp và năng lực cạnh tranh chưa cao có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế. Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã thẳng thắn chỉ ra: “Chất lượng giáo dục nhìn chung thấp, nhất là ở giá́o dục đại học và giáo dục nghề chuyên nghiệp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, là một trong những nguyên nhân làm hạn chế chất lượng nguồn nhân lực của đất nước… Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy người, dạy nghề…”.
Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động còn nhiều yếu kém và hạn chế. Trong đó, hệ thống bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động.
Hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, đầy đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh trên bình diện quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được chính xác hiện trạng của cung – cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước.
Khảo sát của Ngân hàng Thế giới đối với người sử dụng lao động ở Việt Nam trong năm 2014 cho thấy một vấn đề khác về khía cạnh thực hành. Đó là khoảng trống trong các kỹ năng chuyên môn liên quan đến công việc, các kỹ năng nhận thức như giải quyết vấn đề tư duy phản biện và các kỹ năng cốt lõi như làm việc theo nhóm và giao tiếp.
“Khoảng cách kỹ năng vẫn còn tồn tại giữa nhà trường và nơi làm việc. Vì thế, việc thu hẹp khoảng cách này và đáp ứng nhu cầu về kỹ năng trong tương lai thông qua thúc đẩy hợp tác chặt chẽ giữa DN và giáo dục, cũng như sự tham gia của DN trong việc phát triển các chuẩn kỹ năng và chương trình đào tạo là hết sức quan trọng” - Giám đốc ILO Việt Nam cho biết.
Đã đến lúc cần phải loại trừ quan niệm là nguồn nhân lực chất lượng cao đồng nghĩa với nguồn nhân lực có bằng cấp cao. Những năm gần đây các trường cao đẳng, đại học mở ra ồ ạt và hàng năm có hàng triệu sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng đủ các hệ đào tạo.
Mặc dù quy mô đào tạo gấp hàng chục lần thời kỳ cách đây 10 - 15 năm, nhưng chất lượng đào tạo vẫn là nỗi trăn trở của toàn xã hội. Nhiều sinh viên tốt nghiệp ra trường, cầm tấm bằng đại học, cao đẳng trong tay nhưng vẫn thiếu chuyên môn, yếu kỹ năng thực hành.
Để hội nhập với các nước trong khu vực ASEAN, phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với đội ngũ lao động có đầy đủ tri thức, vững vàng về kiến thức chuyên môn, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp, chứ không phải là trang bị cho người lao động có bằng cấp đầy đủ.