Cá mát sẽ vào sách đỏ?
Cá mát nướng than |
Sự việc đang khiến người dân nhức nhối, dư luận quan tâm. Đã có những cây bút xoáy sâu vào đề tài này, nhằm đánh thức con người. Rằng hãy khai thác có bảo vệ, mang tính bền vững. Nhưng sự thật thì… vì nguồn lợi trước mắt, nhiều người dân chẳng quan tâm.
Tôi biết, đã có những bài báo rung lên cảm động, vậy mà bất chấp, người ta vẫn không cảnh tỉnh. Bản thân tôi cũng chứng kiến quá nhiều sự việc đau lòng, tận diệt nguồn sống. Và một chiều rất đỗi bình thường, xuôi thuyền trên sông Giăng, tôi cũng nản lòng vì nguồn cá giờ ít ỏi quá.
Dòng sông Giăng mềm mại xuất phát từ biên giới Việt – Lào, không chỉ là đường giao thông độc đạo vào vùng lõi Pù Mát, mà còn là nơi kiếm sống mưu sinh của những người dân bản địa. Theo tìm hiểu, thì từ hơn chục năm qua, cá mát đã trở thành đặc sản ở miền tây xứ Nghệ. Nhất là cá trên sông Giăng, được coi là “đệ nhất đặc sản”.
Từ đó giá trị của nó tăng lên chóng mặt. Các nhà hàng, khách sạn lúc nào cũng sẵn sàng thu mua với giá từ 200-300 nghìn đồng/kg, còn khách ở xa tới sẵn sàng bỏ ra 400-500 nghìn đồng để mua 1kg cá mát. Loài cá này chế biến được nhiều món ăn. Ngoài kho tương, ăn với cơm nóng, cá mát còn có một cách chế biến khác đó là đem kẹp cá vào vỉ tre tươi và nướng giòn trên nồi than hoa, chấm mắm gừng, thật tuyệt.
Cộng thêm rất nhiều lời đồn về loài cá ngon, ưa sống sạch sẽ từ các khe đá này, đã khiến các nhà hàng luôn về đặt hàng. Đó là điều kích thích sự khai thác tận diệt. Người ta tìm đủ mọi cách. Nào chài, lưới, dậm, nào mủng… Thậm chí có người dùng mìn nổ, kích điện gí xuống lòng sông. Bụng sông sôi ùng ục. Cá tôm tan tác từng đàn, con to thì bị bắt lên, con bé nổi bụng trắng mặt sông.
Vậy là, con sông xưa mà người dân từng nói, muốn xuống phải rẽ cá mà đi, để mô tả về sự phong phú, giờ đã thưa vắng. Anh Vi Văn Luyện, người hướng dẫn viên bất đắc dĩ của tôi bảo rằng, trước đây có những bản sống chủ yếu bằng nguồn lợi từ sông Giăng.
Nhưng cá sông thưa vắng, họ phải chuyển nghề khác. Một số vì nhớ nghề vẫn cứ du thuyền, giăng lưới vớt vát chút đỉnh. Những khe Búng, khe Tăng, khe Choăng, khe Bê… là những bến tắm, những mỏ kiếm cá của người dân cải thiện cuộc sống đã trở nên lạnh lẽo.
Luyện tỏ ra tiếc nuối: “Trước đây chúng em chỉ nhảy xuống sông, lặn hụp một lát là đã có đủ cả mớ cá mát to, đủ một nồi canh lớn cho cả nhà và mỗi người còn có thêm vài con để nướng tươi bên bếp củi. Còn bây giờ…”.
Nhiều lão ngư mà tôi gặp trên hành trình tỏ ra ngán ngẩm và chung một nỗi tiếc nuối. Ai cũng mong nguồn sinh nguồn sống ấy tồn tại mãi. Nhưng không ai bảo được ai. Người này khai thác tận diệt thì người kia cũng chẳng thể khoanh tay đứng nhìn. Người này kích động người kia. Cuối cùng là lòng sông và loài cá tổn thương, thiệt hại.
Cuối cùng là sự đông đúc của chúng chỉ còn là hoài niệm. Những mỏ cá có nguy cơ đi vào dĩ vãng. Một lão ngư nhìn tôi, thảng thốt: “Suốt đêm ngày, hàng trăm người mai phục bên dòng sông để săn bắt các loài cá quý, mà thô bạo, thì làm sao còn được!”.
Tiếng của lão ngư làm tôi nhớ đến tất cả những loài động vật trong tự nhiên khác, các loài cá trên các khúc sông khác, quãng đồng khác. Vâng, ở nhiều cánh đồng làng quê, nhiều loài cá đã bị tiệt chủng vì ô nhiễm và sự khai thác thô bạo. Người ta không biết chính mình đang làm hại cuộc sống của mình và đồng loại.
Ai cũng cần một cuộc sống ổn định. Trên những cung đường tác nghiệp, tôi càng hiểu thêm một điều, nếu không biết bảo vệ tự nhiên, bảo vệ nguồn sống thì chính chúng ta đã tước đi cuộc sống yên bình và no ấm của thế hệ mai sau. Cá mát có quyền sống và nuôi dưỡng không ít người, vậy nên đừng phụ bạc với chúng.