Cần phân định rõ giữa cầm cố, thế chấp và bảo lãnh
Ảnh minh họa |
Tuy nhiên, trong thực tiễn còn có một số cách hiểu chưa thống nhất, có sự nhầm lẫn giữa thế chấp và bảo lãnh. Đặc biệt là nhẫm lẫn giữa thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác (gọi là thế chấp) và bảo lãnh. Cũng tương tự, việc nhầm lẫn giữa cầm cố tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ của bên thứ ba và bảo lãnh cũng thường xảy ra.
Ðiều 342 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên (gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản cho bên kia”.
Như vậy, các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 đã bỏ quy định bên thế chấp bắt buộc phải đồng thời là bên có nghĩa vụ trong quy định về thế chấp của Bộ luật Dân sự 1995. Hay nói cách khác, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp tài sản có thể là nghĩa vụ của chính bên thế chấp (chủ sở hữu tài sản) hoặc có thể là nghĩa vụ của người khác không phải là bên thế chấp.
Kế thừa quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, khoản 1 Điều 330 dự thảo Bộ luật Dân sự quy định "Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính mình hoặc của người khác và không chuyển giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)".
So với khái niệm thế chấp quy định tại khoản 1 Điều 342 Bộ luật Dân sự 2005, quy định tại dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) không thay đổi khái niệm thế chấp mà chỉ quy định cụ thể, rõ ràng hơn về nghĩa vụ dân sự được bảo đảm bởi biện pháp thế chấp, góp phần hạn chế các cách hiểu khác nhau trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Về bảo lãnh, Ðiều 362 Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 353 dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) đều quy định về khái niệm bảo lãnh như sau: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”.
Theo các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và dự thảo Bộ luật Dân sự, bảo lãnh là quan hệ đối nhân, bên bảo lãnh không xác định tài sản cụ thể của mình để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên bảo lãnh bảo lãnh bằng toàn bộ tài sản, tiềm lực tài chính, uy tín của mình (ví dụ khi ngân hàng thực hiện bảo lãnh dự thầu cho nhà thầu).
Như vậy, cùng là biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của bên thứ ba, nhưng quan hệ bảo lãnh (không xác định tài sản cụ thể để bảo đảm cho nghĩa vụ được bảo lãnh - quan hệ đối nhân) khác với quan hệ thế chấp (phải xác định tài sản cụ thể để bảo đảm cho nghĩa vụ được thế chấp - quan hệ đối vật).
Quy định về thế chấp, bảo lãnh tại dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) đã phản ánh chính xác hơn tư cách, quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia vào giao dịch. Quy định cụ thể về nghĩa vụ dân sự được bảo đảm bởi biện pháp thế chấp có thể là nghĩa vụ của chính bên thế chấp; hoặc có thể là nghĩa vụ của người khác không phải là bên thế chấp là rất cần thiết.
Quy định này góp phần làm rõ và thống nhất cách hiểu về biện pháp thế chấp cũng như hạn chế nhầm lẫn giữa biện pháp thế chấp và bảo lãnh đang khá phổ biến hiện nay.
Tuy nhiên, khoản 3 Điều 355 dự thảo Bộ luật Dân sự quy định: "Nghĩa vụ bảo lãnh có thể được bảo đảm thực hiện bằng cầm cố hoặc thế chấp tài sản nếu các bên có thỏa thuận". Quy định này sẽ làm cho các hình thức bảo đảm không rõ ràng, rành mạch và có sự chồng lấn giữa hình thức cầm cố, thế chấp và bảo lãnh. Việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh chính là việc bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh thay cho bên được bảo lãnh.
Do đó, về bản chất, trường hợp bên bảo lãnh đã có cam kết bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh, đồng thời dùng tài sản để cầm cố hoặc thế chấp để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình là việc dùng hai biện pháp bảo đảm để bảo đảm cho cùng một nghĩa vụ.
Quy định này là không cần thiết và gây phức tạp trong quan hệ bảo lãnh vì trường hợp bên nhận bảo lãnh thấy cần thiết phải xác định một tài sản cụ thể của bên bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn hình thức đơn giản, rõ ràng hơn là thế chấp để bảo đảm cho nghĩa vụ của bên thứ ba.
Để có sự phân biệt rõ ràng hơn nữa giữa bảo lãnh và thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác, dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) nên bỏ quy định tại khoản 3 Điều 355 dự thảo Bộ luật Dân sự nêu trên.