Cốt lõi của thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiện nay là niềm tin
Bên cạnh đó, để phát triển toàn diện thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ngoài việc nâng cao chất lượng, tính minh bạch đối với trái phiếu riêng lẻ, các chuyên gia cũng đề nghị Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có giải pháp khuyến khích, thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp niêm yết phát triển song song.
Những thông tin đáng chú ý trên đã được các chuyên gia thẳng thắn trao đổi tại Tọa đàm "Giải pháp khơi thông thị trường vốn" diễn ra sáng nay.
Tại tọa đàm, nhiều chuyên gia đã đánh giá cao sự quyết liệt trong điều hành của Chính phủ và các bộ, ngành thời gian qua, nổi bật là sự ra đời của Nghị định 08/2023/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để Nghị định 08, cùng nhiều Nghị quyết về khơi thông thị trường vốn của Chính phủ nhanh chóng mang lại hiệu quả trên thực tiễn, các chuyên gia đều cho rằng còn rất nhiều việc phải làm trong thời gian tới.
TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia đánh giá, rủi ro lớn nhất với thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiện nay là sẽ có một khối lượng lớn trái phiếu đáo hạn trong giai đoạn 2023-2024 do sự phát triển bùng nổ của thị trường trong giai đoạn 2019-2021.
Theo số liệu của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), năm 2023 sẽ có khoảng 271.000 tỉ đồng trái phiếu đáo hạn, trong đó số lượng trái phiếu do doanh nghiệp bất động sản phát hành là khoảng 119.000 tỉ đồng; năm 2024, giá trị trái phiếu đáo hạn khoảng 330.000 tỷ đồng (trong đó, của doanh nghiệp bất động sản là 110.000 tỷ đồng). Tất cả đều chưa tính tiền lãi.
“Để phát triển, lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam, cần quyết liệt xử lý nhanh chóng, dứt điểm, nghiêm minh những vi phạm về phát hành trái phiếu doanh nghiệp để lấy lại niềm tin của nhà đầu tư; kiểm soát việc đại chúng hóa ở thị trường thứ cấp như thời gian qua; khuyến khích các tổ chức tư vấn độc lập về đầu tư trái phiếu; nâng cao chất lượng dòng tiền của tổ chức phát hành. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng cải cách thủ tục, điều kiện, rút gọn thời gian cấp phép phát hành để tạo điều kiện, có chính sách khuyến khích phát hành trái phiếu ra công chúng", TS. Cấn Văn Lực nói.
Theo TS. Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương, vấn đề cốt lõi của thị trường vốn là niềm tin từ các yếu tố vĩ mô, triển vọng phát triển kinh tế trong và ngoài nước, niềm tin của nhà đầu tư về những lợi ích hợp pháp của họ được bảo vệ. Thực tế, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã phát triển quá nhanh trong thời gian qua, việc 'phanh gấp' quá trình phát triển sẽ tạo ra các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế và bản thân thị trường.
“Xử lý các doanh nghiệp vi phạm quy định là cần thiết để lấy lại niềm tin cho nhà đầu tư, nhưng quá trình xử lý không được để nhà đầu tư mất niềm tin vào toàn bộ thị trường, kể các các doanh nghiệp tốt, hoạt động tuân thủ đúng pháp luật", TS. Nguyễn Tú Anh đề nghị.
Ông cũng đề xuất thêm, nên chăng Việt Nam cần xây dựng định chế về mua bảo hiểm đầu tư trái phiếu. Thị trường thế giới đã có giao dịch CDF (hợp đồng chênh lệch), rất phổ biến, và Việt Nam có thể tính toán đến việc này, nhằm tạo điều kiện cho thị trường phát triển. Ví dụ các công ty xếp hạng tín nhiệm đánh giá tín nhiệm về một công ty phát hành nào đó, trên cơ sở xếp hạng tín nhiệm, các định chế sẵn sàng đứng ra bảo hiểm cho sản phẩm trái phiếu đó.
Về vấn đề này, bà Tạ Thanh Bình, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước - nêu quan điểm là thị trường chứng khoán Mỹ đã có một định chế thành lập từ năm 1970 là quỹ bảo vệ nhà đầu tư, bảo hiểm cho khoản đầu tư, nhưng chỉ bảo hiểm cho tài sản nhà đầu tư không bị thiệt hại bởi các vi phạm chứ không thể bảo hiểm các giá trị luôn có lãi hoặc rủi ro mất vốn. Điều đó phụ thuộc vào chất lượng kinh doanh của các tổ chức phát hành.
Trước mắt, để tạo niềm tin cho nhà đầu tư, các chuyên gia cho rằng cần có cơ chế phân loại trái phiếu, ví dụ xếp hạng tín nhiệm.
“Nên khuyến khích các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá tín nhiệm cho toàn bộ các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Hiện tại, Nghị định 08/2023/NĐ-CP đã tạm ngưng hiệu lực thi hành đối với quy định về kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu cho đến hết năm 2023. Đây cũng là khoảng thời gian cần thiết để giúp các doanh nghiệp có thể lên lộ trình cụ thể vào việc tham gia xếp hạng tín nhiệm, tuy nhiên cần phải xác định rõ đây là một nhiệm vụ cấp bách để giúp lấy lại niềm tin của nhà đầu tư với thị trường, làm minh bạch hóa thị trường, giúp nâng hạng thị trường vốn Việt Nam, điều mà nhiều nước phát triển trong khu vực đã có từ rất lâu”, ông Nguyễn Tuấn Anh, Phó Tổng giám đốc phụ trách nguồn vốn Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công thương kiến nghị.
7 biện pháp gỡ tắc cho thị trường vốn
Theo các chuyên gia, để phát triển toàn diện thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ngoài việc nâng cao chất lượng, tính minh bạch đối với trái phiếu riêng lẻ, các chuyên gia cũng đề nghị Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có giải pháp khuyến khích, thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp niêm yết phát triển song song.
Theo đó, cần đẩy nhanh quy trình phê duyệt cho các doanh nghiệp niêm yết trái phiếu, khuyến khích cơ quan quản lý rút ngắn thời gian phê duyệt hồ sơ phát hành trái phiếu doanh nghiệp niêm yết, từ đó tiếp cận được với đại đa số nhà đầu tư để huy động nguồn vốn cũng như đa dạng hóa danh mục trái phiếu doanh nghiệp niêm yết có chất lượng.
Đồng thời, các cơ quan chức năng cũng nên tích cực, tăng cường quảng bá các sản phẩm trái phiếu niêm yết, giới thiệu những lợi ích của trái phiếu niêm yết để tăng thêm sự thu hút của nhà đầu tư và chú trọng tăng cường hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế, các nước phát triển trên thế giới nhằm học hỏi kinh nghiệm, hỗ trợ phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam.
Theo TS. Cấn Văn Lực, Nghị định 08 (2023) mới được ban hành được xem là giải pháp tạm thời, giúp tháo gỡ các khó khăn trước mặt cho thị trường. Tuy nhiên, để thị trường có thể phát triển lành mạnh cũng như hạn chế rủi ro thì cần có các biện pháp dài hạn, vĩ mô để khắc phục các điểm yếu lớn như hành lang pháp lý và quy chế quản lý thị trường, hạ tầng thị trường (hệ thống giao dịch, công ty định hạng tín nhiệm...) cũng như nền tảng nhà đầu tư.
Vì vậy ông Lực cho rằng cần chú ý tới 7 biện pháp: Một là, quyết liệt chỉ đạo giải quyết nhanh chóng, dứt điểm và nghiêm minh những vi phạm về phát hành trái phiếu doanh nghiệp vừa qua để lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư. Điều này sẽ giúp thị trường trái phiếu doanh nghiệp phục hồi nhanh chóng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn để đầu tư, sản xuất và cả đảo nợ, đảm bảo quá trình phục hồi của nền kinh tế không bị gián đoạn.
Hai là cần nhanh chóng cải cách thủ tục, điều kiện, rút gọn thời gian cấp phép phát hành để tạo điều kiện, có chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng. Đây sẽ là kênh gọi vốn quan trọng của doanh nghiệp.
Ba là cần có chính sách khuyến khích định hạng tín nhiệm, công bố thông tin định hạng tín nhiệm cho doanh nghiệp nói chung (không chỉ cho phát hành trái phiếu doanh nghiệp).
Bốn là hoàn thiện hạ tầng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp như thị trường thứ cấp tập trung, cơ sở dữ liệu về trái phiếu, về tài sản đảm bảo… Việc xây dựng và phát triển các thị trường thứ cấp an toàn là nội dung cần sớm triển khai để tăng thanh khoản, thu hút thêm dòng vốn đầu tư từ trong và ngoài nước.
Năm là hoàn thiện cơ chế quản lý và giám sát thị trường, như cơ chế quản lý đối với trái phiếu sau phát hành, quản lý tài sản đảm bảo, giám sát dòng tiền, quản lý mục đích sử dụng vốn… Tăng mức chế tài đối với các hành vi vi phạm.
Sáu là cải thiện chất lượng nhà đầu tư cá nhân trên thị trường thông qua tăng cường giáo dục tài chính cho nhà đầu tư cá nhân, đồng thời đưa ra các chính sách khuyến khích phát triển nhà đầu tư tổ chức.
Cuối cùng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam là một cấu phần không thể tách rời của thị trường tài chính và bất động sản. Việc quản lý, định hướng phát triển cần được gắn chặt với hệ thống tài chính; việc áp dụng các quy chuẩn công bố thông tin, an toàn hệ thống... cần được giám sát chặt chẽ bởi cơ quan quản lý một cách phù hợp, với tư cách độc lập nhiều hơn.