Chỉ số kinh tế:
Ngày 30/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.124 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.918/26.330 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.

Đa dạng hóa nguồn vốn, giảm dần phụ thuộc tín dụng

Quỳnh Trang
Quỳnh Trang  - 
Tín dụng ngân hàng nhiều năm qua luôn giữ vai trò kênh dẫn vốn chủ lực của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong việc duy trì tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến cuối tháng 11/2025, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với đầu năm, cao hơn đáng kể so với mức tăng 11,47% của cùng kỳ năm trước và vượt mục tiêu đề ra. Điều này cho thấy tín dụng tiếp tục giữ vai trò là kênh cung ứng vốn chủ lực cho doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh nhu cầu phục hồi và mở rộng sản xuất - kinh doanh gia tăng.
aa
TP. Hồ Chí Minh: Tăng trưởng tín dụng ước tăng 13,5% so với cuối năm 2024 Cho vay ưu đãi nông, lâm, thủy sản về đích

Tiếp tục là kênh cung ứng vốn chủ lực

Chính từ thực tế đó, bài toán đặt ra cho giai đoạn tới không chỉ là duy trì tăng trưởng tín dụng, mà còn là bảo đảm đủ nguồn lực tài chính để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển dài hạn. Việc duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn 2026 - 2030 được xác định là nền tảng then chốt, tạo tiền đề để Việt Nam vươn lên nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và tiến tới trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. Theo ước tính của các chuyên gia trong và ngoài nước, để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần một lượng vốn rất lớn, khoảng 1.400 tỷ USD trong 5 năm tới, tương đương 280 tỷ USD mỗi năm. Trong khi đó, nguồn lực đầu tư hiện vẫn chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng, với quy mô tín dụng tương đương khoảng 134% GDP.

Theo bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), áp lực cung ứng vốn cho nền kinh tế tiếp tục ở mức cao trong bối cảnh thị trường tài chính phát triển chưa cân xứng, trong khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán còn gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy đầy đủ vai trò là kênh cung ứng vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế. Theo bà Giang, nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia rất lớn, tạo áp lực không nhỏ đối với các tổ chức tín dụng trong việc cân đối nguồn vốn và quản trị rủi ro kỳ hạn, nhất là khi nguồn vốn cho vay chủ yếu vẫn là tiền gửi có kỳ hạn ngắn, hiện chiếm khoảng 80% tổng tiền gửi của hệ thống.

Phân tích bức tranh tổng thể, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, nền kinh tế Việt Nam đang dựa quá lớn vào hệ thống ngân hàng khi kênh này chiếm tới hơn 50% tổng cung vốn. Đến cuối năm 2025, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam ước đạt 147%. Nếu tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng 16-17%, đến năm 2030, tỷ lệ này sẽ lên tới 180-185% GDP - thuộc nhóm cao nhất thế giới. Thống kê cho thấy, tại Mỹ, tỷ lệ tín dụng/GDP là 198% nhưng đó là bao gồm các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Nếu chỉ tính riêng khối ngân hàng thương mại, tỷ lệ này của họ chỉ khoảng 80% GDP, rủi ro đòn bẩy tài chính tại Việt Nam đang dồn quá lớn lên vai hệ thống ngân hàng.

Ở góc độ vĩ mô, theo TS. Cấn Văn Lực, chất lượng tăng trưởng phụ thuộc lớn vào cơ cấu tín dụng và cơ cấu đầu tư. Hiện khoảng 80% vốn đầu tư công dành cho hạ tầng giao thông; trong khi y tế, giáo dục chiếm 15%, còn khoa học - công nghệ chỉ khoảng 0,5%. “Nâng cao hiệu quả đầu tư và điều chỉnh cơ cấu vốn hợp lý quan trọng hơn việc chỉ mở rộng quy mô tín dụng”, ông nhấn mạnh.

Hiện tín dụng ngân hàng vẫn là kênh vốn chủ đạo cho nền kinh tế
Hiện tín dụng ngân hàng vẫn là kênh vốn chủ đạo cho nền kinh tế

Đa dạng hóa nguồn vốn - con đường tất yếu

Từ thực tiễn đó, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần sớm đổi mới tư duy huy động và phân bổ nguồn lực, chuyển từ mô hình phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng sang mô hình phát triển cân bằng hơn, dựa nhiều hơn vào thị trường vốn và các nguồn tài chính trung, dài hạn, nhằm bảo đảm tăng trưởng nhanh nhưng bền vững trong giai đoạn tới.

Để giảm áp lực lên tín dụng ngân hàng, cần đẩy nhanh cải cách thể chế tài chính, phát triển thị trường tài chính theo hướng cân bằng hơn; Thúc đẩy thị trường vốn, thị trường trái phiếu, đa dạng hóa các định chế tài chính như quỹ đầu tư, quỹ hưu trí. Đồng thời hoàn thiện khung pháp lý cho các mô hình mới như tài chính xanh, tài chính số, thị trường carbon, trung tâm tài chính quốc tế. Định hướng đầu tư cũng cần được điều chỉnh theo hướng ưu tiên các lĩnh vực có lợi thế so sánh cao, ít gây áp lực lạm phát và phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.

Theo TS. Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, nên ưu tiên phát triển các ngành như năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và điện mặt trời; các ngành phục vụ chuyển đổi số, thương mại điện tử trong nước và xuyên biên giới… Trong bối cảnh đó, tín dụng xanh được nhìn nhận là một trong những kênh dẫn vốn quan trọng cần được phát triển song hành với thị trường vốn nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Các chuyên gia đề xuất sớm ban hành đầy đủ các quy định liên quan đến chuẩn mực cấp tín dụng, đánh giá và quản trị rủi ro môi trường - xã hội trong hoạt động ngân hàng; đồng thời xây dựng các cơ chế ưu đãi tín dụng gắn với mục tiêu chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng bền vững.

Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng, cần sớm xây dựng cơ chế đánh giá và xếp hạng ưu tiên đối với các tổ chức tín dụng tham gia tài chính xanh, qua đó tạo động lực cho các ngân hàng và nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn quốc tế. Đồng thời, cần dành một nguồn tái cấp vốn ổn định, dài hạn cho tín dụng xanh, phù hợp với đặc thù của các dự án đầu tư xanh có vòng đời dài và thời gian thu hồi vốn chậm.

Ông Hùng cũng kiến nghị thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh theo mô hình hợp tác công - tư, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn, đồng thời rút kinh nghiệm từ những hạn chế của các quỹ bảo lãnh hiện nay. Việc sớm vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon được xem là công cụ quan trọng để thúc đẩy ngân hàng phát triển các sản phẩm tài chính mới, gắn với thị trường carbon.

Quỳnh Trang

Tin liên quan

Tin khác

Tính đến ngày 24/12 tín dụng tăng 17,87% so với cuối năm 2024

Tính đến ngày 24/12 tín dụng tăng 17,87% so với cuối năm 2024

Chiều ngày 29/12, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Họp báo Thông tin kết quả hoạt động ngân hàng năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì buổi họp báo.
Tín dụng chính sách góp phần phát triển kinh tế nông thôn

Tín dụng chính sách góp phần phát triển kinh tế nông thôn

Không chỉ mang ý nghĩa hỗ trợ an sinh, nguồn vốn tín dụng chính sách tại Hà Tĩnh đang từng bước trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn gắn với lợi thế, tiềm năng sẵn có ở địa phương…
Cho vay ưu đãi nông, lâm, thủy sản về đích

Cho vay ưu đãi nông, lâm, thủy sản về đích

Chương trình tín dụng ưu đãi đối với nông, lâm, thủy sản là một trong những chương trình tín dụng có sự lan tỏa mạnh mẽ và tăng trưởng mạnh nhất trong năm 2025 ở nhiều địa phương.
Ngân hàng đầu tư cho hạ tầng liên vùng

Ngân hàng đầu tư cho hạ tầng liên vùng

Chỉ trong vài tuần cuối năm 2025, hàng chục nghìn tỷ đồng đã được các ngân hàng cam kết cho vay vào các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm. Dòng vốn ngân hàng đang tạo cú hích phát triển liên vùng và thu hút tư nhân đầu tư vào hạ tầng chiến lược.
Ngân hàng tạo lực đỡ cho tăng trưởng ở Bắc Trung bộ

Ngân hàng tạo lực đỡ cho tăng trưởng ở Bắc Trung bộ

Dòng vốn tín dụng ngân hàng đang đóng vai trò như một “mạch dẫn” quan trọng, góp phần khai thác tiềm năng, tháo gỡ điểm nghẽn và tạo động lực tăng trưởng bền vững khu vực Bắc Trung bộ...
Lãi suất tăng nhưng vẫn chưa đáng lo ngại

Lãi suất tăng nhưng vẫn chưa đáng lo ngại

Dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế tăng nhanh trong khi huy động vốn chậm lại đã khiến mặt bằng lãi suất huy động nhích lên trong những tuần gần đây. Tuy nhiên, với điều hành chủ động, linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và mặt bằng lãi suất cho vay vẫn duy trì ở mức thấp, giới phân tích cho rằng áp lực hiện nay vẫn trong tầm kiểm soát và chưa đáng lo ngại đối với nền kinh tế.
Ngân hàng đồng hành, gỡ khó công nghệ cho hộ kinh doanh

Ngân hàng đồng hành, gỡ khó công nghệ cho hộ kinh doanh

Với sự phối hợp giữa ngành Thuế và Ngân hàng, đặc biệt là vai trò gỡ “nút thắt” về công nghệ của các tổ chức tín dụng, quá trình chuyển đổi từ thuế khoán sang kê khai đã và đang diễn ra thuận lợi hơn, giúp hộ kinh doanh giảm chi phí vận hành, đơn giản hóa quy trình kê khai, nộp thuế, nâng cao hiệu quả quản trị và sớm tiếp cận môi trường kinh doanh số một cách minh bạch và chuyên nghiệp.
Đầu tư công tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng

Đầu tư công tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng

Nhìn ở góc độ hoạt động ngân hàng và vai trò đáp ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế: đầu tư công và hiệu quả đầu tư công tạo hiệu ứng, tác động tích cực đối với tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng - doanh nghiệp cùng tạo động lực phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng - doanh nghiệp cùng tạo động lực phát triển kinh tế địa phương

Trong bối cảnh doanh nghiệp đang phải đối mặt với không ít thách thức liên quan đến dòng tiền, chi phí vốn và khả năng mở rộng sản xuất - kinh doanh; Áp lực phục hồi sau giai đoạn khó khăn, cùng yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh, chuyển đổi số và thích ứng với những chuẩn mực phát triển mới, khiến nhu cầu vốn của doanh nghiệp ngày càng gia tăng. Trước thực tế đó, chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp được xem là giải pháp then chốt, góp phần khơi thông dòng vốn tín dụng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Ngân hàng Nhà nước Khu vực 6 giữ vững ổn định tiền tệ, tín dụng tăng trưởng bền vững

Ngân hàng Nhà nước Khu vực 6 giữ vững ổn định tiền tệ, tín dụng tăng trưởng bền vững

Năm 2025, bám sát chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Khu vực 6 đã tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách tiền tệ trên địa bàn, qua đó giữ vững ổn định thị trường tiền tệ – tín dụng, duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý và bảo đảm tăng trưởng tín dụng an toàn, bền vững. Những kết quả này đã góp phần quan trọng hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội tại Hải Phòng và Quảng Ninh, với GRDP năm 2025 ước tăng lần lượt 11,81% (xếp thứ 2 cả nước) và 11,89% (đứng đầu toàn quốc).