Đại biểu Quốc hội: Cần làm rõ “sự cần thiết” trong các dự án thu hồi đất
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 4, ngày 14/11, Quốc hội tiến hành thảo luận ở hội trường về dự án Luật Đất đai (sửa đổi).
Điều hành thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nhấn mạnh, Luật Đất đai là một đạo luật rất quan trọng, phức tạp, giữ vai trò căn bản trong hệ thống pháp luật về đất đai, có mối quan hệ và ảnh hưởng sâu sắc đến việc thực thi các chính sách, quy định trong rất nhiều luật khác, tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, tới tất cả các tổ chức và từng người dân.
“Việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng pháp luật trong nhiệm kỳ, dự kiến phải 3 kỳ họp để có thời gian rà soát kỹ lưỡng với tinh thần vì lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng, doanh nghiệp và người dân” Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết.
Tính chất chất quan trọng, cần thiết, cấp bách nhưng phải rất kỹ lưỡng được thể hiện ngay trong kỳ họp đầu tiên lấy ý kiến về dự án Luật. Cụ thể tại Kỳ họp lần thứ 4 này, riêng trong thảo luận tại tổ đã thu hút 228 lượt ý kiến phát biểu tại 19 tổ và hàng trăm đại biểu đăng ký thảo luận tại hội trường.
Về cơ bản, các ý kiến đều đồng tình với sự cần thiết sửa đổi luật để thể chế hóa chủ trương của Đảng, hoàn thiện hành lang pháp lý, nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường, khắc phục bất cập, hạn chế của luật hiện hành; ngăn ngừa, xử lý vi phạm về đất đai, khiếu kiện về đất đai… Từ sự nhất trí chung đó, các ý kiến đi vào đóng góp cho từng nhóm chính sách, vấn đề cụ thể trong dự thảo Luật.
Lo lạm dụng, thu hồi đất tràn lan
Đại biểu Mai Thị Phương Hoa (Nam Định) cho rằng, Điều 54 của Hiến pháp năm 2013 đã quy định, Nhà nước được quyền thu hồi đất nhưng phải bảo đảm đầy đủ 3 điều kiện đó là: Thuộc trường hợp thật cần thiết; Do luật định; Vì mục đích quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng. Như vậy, việc thu hồi đất cần phải có yếu tố “thật cần thiết” và phải được quy định trong luật. Tuy nhiên, Luật Đất đai hiện hành không có quy định thế nào là trường hợp thật cần thiết.
Đại biểu Mai Thị Phương Hoa |
Thực tế thời gian qua, khi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lập dự án thu hồi đất đã tự quy định và thuyết minh về “sự cần thiết” cho từng dự án. Như vậy, sẽ tạo ra sự không thống nhất, dễ thực hiện theo ý muốn chủ quan của mình và có trường hợp dễ tạo ra sự lạm dụng để thu hồi đất tràn lan. Hệ quả là thời gian vừa qua, nhiều dự án sau khi được Nhà nước thu hồi và phê duyệt thì 10 năm sau vẫn chưa triển khai hoặc triển khai dở dang hoặc có dự án sau một thời gian triển khai thì thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất, không giữ được mục đích sử dụng đất ban đầu khi lập dự án.
Như vậy, yếu tố “thật cần thiết” đã không được quan tâm và không thực hiện đúng ở những dự án này. “Do đó, để tránh những trường hợp tùy tiện, không thống nhất và dễ bị lạm dụng thì cần quy định ngay trong Luật Đất đai (sửa đổi) lần này những tiêu chí cụ thể để xác định thế nào là thật cần thiết và theo đúng yêu cầu của Điều 54 Hiến pháp năm 2013. Nếu Luật sửa đổi không làm được việc này thì coi như chưa thực hiện đúng quy định của Hiến pháp”, nữ đại biểu nêu quan điểm.
Bên cạnh đó, đại biểu Mai Thị Phương Hoa cho rằng, cần rất quan tâm đến đối tượng người dân bị thu hồi đất. Theo tinh thần của Hiến pháp 2013, quyền sử dụng đất của cá nhân, tổ chức cũng phải được bảo hộ, kể cả trong trường hợp bị Nhà nước thu hồi đất thông qua việc công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật. Nhà nước phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của 3 bên, Nhà nước, người dân, doanh nghiệp. Trong đó, người dân ở đây bao gồm cả người dân được thụ hưởng từ các công trình, dự án xây lên từ mảnh đất bị thu hồi và chính người dân bị thu hồi đất.
“Cần quan tâm hơn đến người dân bị thu hồi đất, vì họ ở vào thế bị động, có khả năng mất chỗ ở cũ hoặc bị mất mảnh đất vẫn đang trồng cấy để mưu sinh. Hơn nữa, đối với người dân bị thu hồi đất đã là thiệt thòi rồi, mà thu hồi còn không được thỏa thuận đền bù theo giá thị trường thì lại càng thiệt thòi hơn. Do đó, các chính sách về đền bù việc hỗ trợ, tái định cư cần phải được quan tâm hơn nữa để người dân bị thu hồi đất đỡ thiệt thòi”, đại biểu nói và cho rằng, hơn nữa, theo Nghị quyết số 18 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã quy định: "Tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại".
Đại biểu Mai Thị Phương Hoa dẫn chứng từ báo cáo của Chính phủ về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2022, nội dung liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng chiếm khoảng 64,6% tổng số vụ việc khiếu nại thời gian qua. Trong khi đó, theo báo cáo công tác năm 2022 của ngành Tòa án nhân dân qua công tác giải quyết, xét xử các vụ án hành chính cũng cho thấy, các vụ án chủ yếu liên quan đến khiếu kiện về quản lý đất đai như thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, chiếm khoảng 78,7% tổng số các vụ việc khiếu kiện.
Theo đại biểu Trần Nhật Minh (Nghệ An), nguyên nhân do một số chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai còn bất cập, trong một số trường hợp thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hạ tầng nhưng chưa giải quyết được hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất.
Đại biểu Trần Nhật Minh |
Để giải quyết vấn đề nay, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần này cần khắc phục được những bất cập của Luật Đất đai 2013, quy định các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì mục đích quốc gia, công cộng. Một trong những hạn chế của Luật Đất đai năm 2013 là chưa làm rõ được thế nào là dự án phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng. Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 chỉ mới liệt kê các trường hợp nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội, vì mục đích quốc gia, công cộng mà chưa quy định được các điều kiện, tiêu chí cụ thể, chưa quy định rõ các tiêu chí để phân định rõ các trường hợp thu hồi đất đơn thuần để phát triển kinh tế - xã hội.
“Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần này đã khắc phục được tồn tại nêu trên của Luật Đất đai năm 2013, nhưng theo tôi vẫn chưa đáp ứng đầy đủ định hướng của Nghị quyết số 18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng”, đại biểu Trần Nhật Minh nêu vấn đề và cho rằng: Các quy định tại Điều 86 của dự thảo luật so với Điều 62 Luật Đất đai, phạm vi thu hồi đất được mở rộng hơn, song vẫn chưa rõ ràng, tách biệt vì mục đích khi Nhà nước thu hồi đất dễ bị áp dụng chủ quan, tùy nghi. Đặc biệt, dự thảo Luật sửa đổi chưa làm nổi bật được tiêu chí trường hợp “thật cần thiết” như Hiến pháp năm 2013 đã quy định.
Cùng quan điểm với đại biểu Mai Thị Phương Hoa, đại biểu Trần Nhật Minh cho rằng, cần làm rõ hơn các điều kiện, tiêu chí đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng để tách biệt với các dự án phát triển kinh tế có lợi ích thuần túy của chủ đầu tư, nhằm tránh sự áp đặt chủ quan, máy móc, tràn lan khi nhà nước thu hồi đất dẫn đến sự không đồng thuận của người có đất bị thu hồi, đồng thời để từ đó áp dụng cơ chế thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phù hợp.
Băn khoăn phương án đền bù thu hồi đất
Bên cạnh đó về các dự án thuộc diện thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng tại Điều 86 dự thảo Luật quy định: "các dự án bao gồm: dự án đô thị, dự án dân cư nông thôn, nhà ở thương mại".
Đại biểu Trần Nhật Minh cho rằng, cần làm rõ hơn các tiêu chí thu hồi đất đối với các dự án đô thị, khu dân cư. Bởi thực tế trong thời gian qua, mặc dù những dự án này có tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung nhưng cũng đã mang lại không ít lợi ích cho các chủ đầu tư thực hiện dự án. Đồng thời, việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đô thị, khu dân cư phát sinh khá nhiều khiếu kiện của người bị thu hồi đất do không thống nhất về phương án bồi thường đất.
Theo đại biểu, quy định dự án đất đô thị, dự án dân cư nông thôn, nhà ở thương mại thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất tại Điều 86 để phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng là chưa phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 18 (cụ thể là tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại…) và đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc và làm rõ hơn về vấn đề này.
Nêu quan điểm khác với cách tiếp cận này, đại biểu Đào Hồng Vận (Hưng Yên) cho rằng, việc các dự án nếu thỏa thuận được với người dân và đồng thuận được thì rất tốt. Nhưng thực tế lại không dễ. Đại biểu dẫn chứng thực tế tại địa phương mình rất khó thực hiện cơ chế thỏa thuận này và điều này đang gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư khi bỏ ra một số tiền lớn để đền bù nhưng không thể đưa dự án vào thực hiện, do một số người dân đòi giá thỏa thuận rất cao, gấp nhiều lần so với người đã thỏa thuận đền bù trước đó và có những trường hợp thì giá nào cũng không chịu.
Đại biểu Đào Hồng Vận |
“Nếu chấp thuận đền bù thì sẽ gây mâu thuẫn ngay trong nội bộ người dân, người được cao, người được thấp, nên chỗ này đề nghị Quốc hội nghiên cứu”, đại biểu Đào Hồng Vận lưu ý. Mặt khác, đối với dự án phát triển đô thị, nhà ở thương mại đấu giá sử dụng nhất theo dự thảo chúng ta lựa chọn nhà đầu tư qua hình thức đấu giá, đấu thầu và nhà nước trực tiếp đấu giá đất ở, vì vậy đương nhiên Nhà nước phải tổ chức giải phóng mặt bằng để có mặt bằng sạch đấu giá. “Tôi thiết nghĩ, nếu như vậy Nhà nước sẽ khó thực hiện việc thỏa thuận và theo tôi Nhà nước có thể thu hồi đất, tuy nhiên giá đền bù, hỗ trợ phải đảm bảo để đảm bảo lợi ích của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp”, vị đại biểu nêu quan điểm.
Thừa nhận vấn đề nhà đầu tư không thể thỏa thuận được với một số ít người dân, trong khi cả dự án, cả cộng đồng khu dân cư đã đồng thuận như đại biểu Đào Hồng Vận nêu là một thực tế nhưng đại biểu Dương Văn Phước (Quảng Nam) cho rằng, cơ chế tự thỏa thuận trên tinh thần thương lượng vẫn là cần thiết, để đảm bảo quyền lợi của người dân.
Đại biểu Dương Văn Phước |
“Vấn đề không hẳn khi người dân đòi hỏi giá quá cao mà bản chất việc xác định giá đất chưa được quy định cụ thể. Nếu như theo quy định của Luật Đất đai 2013 thì việc gây ách tắc, cản trở là một thực tế. Vì vậy, quy định mới phải giải quyết được vấn đề phát huy được quyền sử dụng đất và theo chủ trương của Đảng là phải thương mại hóa quyền sử dụng đất, nhưng đồng thời cũng sử dụng quyền năng chủ sở hữu về đất đai của Nhà nước để giải quyết việc cản trở nguồn lực đất đai”, đại biểu Dương Văn Phước phân tích.
Theo đại biểu, Nhà nước cần phải sử dụng quyền năng sở hữu đất đai để định đoạt, giải quyết những vấn đề không thể thỏa thuận. Nghĩa là trên cơ sở dữ liệu về giá đất ở từng vùng và giá đất đã được thỏa thuận trong cộng đồng khu dân cư có dự án thì Nhà nước buộc các hộ (không chấp nhận thỏa thuận) phải chịu thỏa thuận, phải thực hiện được các thỏa thuận, nếu không thì Nhà nước sử dụng quyền năng của mình, quyền sử dụng đất, để chúng ta tổ chức cưỡng chế và giao cho nhà đầu tư hoặc tổ chức đấu thầu, có như thế mới có thể giải quyết được ách tắc hiện nay trên thực tế.