Hành trình về đất Mẹ
“Cô gái Đà Nẵng” và những nhân chứng
Bộ phim tài liệu Daughter from Da Nang (Cô gái Đà Nẵng), do PBS phát hành hồi đầu năm 2002, có lẽ là một trong những đề tài điện ảnh đầu tiên nhắc đến những đứa trẻ Việt Nam được đưa sang Mỹ trong chiến dịch babylift. Phim có thời lượng 81 phút của hai đạo diễn người Mỹ Gail Dolgin and Vicente Franco, từng đạt nhiều giải thưởng quốc tế.
Nội dung phim xoay quanh câu chuyện cảm động về cuộc hành trình trở về quê hương, tìm lại quá khứ của cô gái lai Heidi Bub có tên tiếng Việt Mai Thị Hiệp, con của bà Mai Thị Kim sau 22 năm thất lạc. Tuy nhiên, bộ phim cũng đã cho người xem nhận ra khoảng cách về khác biệt văn hóa và những vết thương chiến tranh có thể ngay trong một gia đình...
Phim làm cho khán giả trong nước dễ dàng cảm nhận đến những hoàn cảnh tương tự. Liệu trong những đứa trẻ ra đi trong chiến dịch babylift, trên hành trình trở về, họ có vượt qua những thử thách, trở ngại để tìm lại người thân?
Bà Lana Noon, người hiện nay vẫn phụ trách giữ mối liên lạc giữa các gia đình nhận các em làm con nuôi của chương trình Operation babylift kể lại: “Chương trình này bắt đầu từ tháng 4/1975, ở Việt Nam lúc bấy giờ, có hàng ngàn trẻ em mồ côi… rất nhiều gia đình khác cũng đang chờ đợi để ra đi.
Chúng tôi cũng không biết là các trẻ em này có được đưa đi hay không vì lúc đó, tình hình rất lộn xộn. Và ngày 28/3/1975, chuyến bay đầu tiên đưa 67 trẻ em mồ côi từ Việt Nam đi, đáp xuống phi trường Oakland, California vào đúng ngày 2/4/1975.
Ngay ngày hôm sau, Tổng thống Hoa Kỳ là Geral Ford đã ban hành chương trình Babylift Orphan, ra lệnh cho quân đội Mỹ phải đưa tất cả các trẻ em ở các viện mồ côi rời khỏi Việt Nam. Và tính từ ngày 2/4 đến ngày 26/4, có cả thẩy 26 chuyến bay và 2.548 trẻ em được đưa đến Hoa Kỳ”.
Một nhân chứng khác, bà LeAnn Thieman, năm xưa là nữ y tá tham gia chương trình di tản các trẻ mồ côi cho hay, đến nay, bà vẫn còn liên lạc với hàng trăm em được đưa sang Mỹ làm con nuôi qua những buổi họp mặt được tổ chức vào những dịp kỷ niệm... “Operation babylift” cũng là nguồn cảm hứng cho hai cuốn sách của Thieman. Trong đó, cuốn “This must be My Brother” là câu chuyện thực về việc bà tham gia chiến dịch “Operation babylift”.
Những thành viên babylift trong một lần hội ngộ tại Việt Nam |
Tìm về vòng tay rộng mở của đất Mẹ...
Trên thực tế, trong số hàng nghìn đứa trẻ lưu lạc ấy, bằng nhiều hoàn cảnh khác nhau, đã có không ít người bằng mọi cách quay lại cội nguồn, với mục đích du lịch và thậm chí làm việc ở quê hương Việt Nam. Lần đầu tiên, vào tháng 6/2005, hãng hàng không World Airways đã tìm cách liên lạc với những babylift mà chính họ đã đưa đi chuyến đầu tiên 30 năm trước. Có 21 trong số 57 trẻ mồ côi được hãng này chuyên chở khi rời Sài Gòn đã chính thức trở về trong chuyến bay này.
Riêng ở cuộc hội ngộ tháng 4 năm nay, tại TP. Hồ Chí Minh của gần 100 thành viên từ chiến dịch babylift trở về Việt Nam, nhân kỷ niệm 40 năm, hãng tin ABC (Úc) có bài phóng sự ghi lại hành trình tìm về cội nguồn của 2 trong số gần 300 đứa trẻ Việt Nam bị đưa sang Úc vào những ngày tháng 4/1975.
Chantal Doecke, một trong số những đứa trẻ Việt Nam bị đưa lên máy bay để rời khỏi Sài Gòn nói rằng: “Giống như những đứa bé khác, tôi đã bị đặt vào trong hộp giày. Rõ ràng đây là một cách thức dễ dàng và an toàn”.
Sau đó, cô được một cặp vợ chồng người Úc nhận làm con nuôi. Trước đây cô chưa từng nghĩ nhiều về gốc gác của mình cho đến khi cô có đứa con đầu lòng. Doecke nói: Tôi đã đứng nhìn mình trước gương, bế đứa con gái trong lòng và tôi đã tự nhủ: “Ôi trời, con giống mình quá!”.
Nhưng rồi tôi lại nghĩ: “Chà, tôi không biết mình trông giống ai nhỉ? Và điều này bắt đầu lẩn quẩn trong đầu tôi”. Doecke cho hay, cô đã tìm kiếm cha mẹ ruột của mình trong nhiều năm, nhưng vẫn chưa tìm ra. Cô đặt ra kế hoạch sẽ thực hiện được trong dịp hội ngộ những đứa trẻ được nhận làm con nuôi tại TP. Hồ Chí Minh lần này.
May mắn hơn là câu chuyện về Tritia Houston, một phụ nữ quốc tịch Mỹ, đã thử dùng công nghệ xét nghiệm ADN để tìm gia đình và thành công. Thay vì là con lai như cô từng được kể, nhờ xét nghiệm ADN, cô biết được cả cha mẹ đẻ của mình đều là người Việt. Đầu tiên cô đã tìm được cha trên Facebook, nơi người đàn ông Việt này cho biết cuộc tìm kiếm con gái hơn 38 năm qua. Ông ấy nhìn thật buồn và có vẻ như đã tìm kiếm ai đó suốt cả cuộc đời mình.
Kết quả xét nghiệm ADN cho thấy hai người là cha con và Tritia cũng đã có mặt tại Việt Nam vào tháng 4 này để gặp cha của mình lần đầu tiên sau 40 năm kể từ khi cô chào đời. Tritia Houston nói: “Tôi hy vọng câu chuyện của mình đem lại cơ hội tìm lại được những thành viên trong gia đình ruột thịt của mình cho các hoàn cảnh tương tự”.
Suốt mấy chục năm qua, dư luận nước Mỹ vẫn còn không ít những tranh cãi về sự kiện “babylift” với nhiều góc độ khen chê khác nhau. Thế nhưng, vượt qua tất cả, những em bé babylift ngày nào khi đến tuổi trưởng thành vẫn không ngớt tìm về vòng tay rộng mở của đất Mẹ...