Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng trong kinh tế học
Hai người khai sinh “giả thuyết thị trường hữu hiệu” là Eugene Fama và Michael Jensen, đều là giáo sư kinh tế tài chính ở Đại học Chicago.Giả thuyết này có ba “phiên bản”. Theo “phiên bản mạnh” (cực đoan) của nó thì tất cả những gì mà người đầu tư cần biết đều được phản ánh trong giá của chứng khoán. Đây là một hệ quả của thuyết “kỳ vọng họp lý” (rational expectations) khống chế kinh tế học vĩ mô trong gần 30 năm nay...
Vào ngày 5/11/2008, trong lúc viếng thăm Trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà kinh tế hiện diện: “Tại sao không ai tiên đoán được cuộc khủng hoảng tín dụng hiện nay”.
Câu hỏi của nữ hoàng và có lẽ cũng của nhiều người khác, đã làm các giáo sư hiện diện vô cùng bối rối. Thật vậy, trong các “bong bóng” bị vỡ vì cuộc khủng hoảng tài chính hai năm nay, thì cái bị vỡ một cách “ngoạn mục” nhất có lẽ là “uy tín” của các nhà kinh tế vĩ mô. Điều này không chỉ được nhận thấy từ người ngoài ngành, nhưng gay gắt nhất lại chính từ các nhà kinh tế.

Paul Krugman (Nobel 2008) chẳng hạn, thẳng thắn cho rằng môn kinh tế học vĩ mô trong 30 năm qua “nhẹ lời nhất thì có thể nói là cực kỳ vô dụng, còn thật nặng lời thì phải nói là thật sự có hại”!
Sự “thất vọng” này thường nhắm vào ba điểm: Thứ nhất, kinh tế học là một phần “nguyên nhân” của cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại. Thứ hai, đại đa số các nhà kinh tế, dù có trách nhiệm gây ra khủng hoảng hay không, đã không dự báo được nó. Và thứ ba, các nhà kinh tế đã không có một kế sách hữu hiệu nào để “chữa trị” cuộc khủng hoảng này khi nó đã xảy ra.
Nói về nguyên nhân cuộc khủng hoảng, tất nhiên, không ai phủ nhận vai trò then chốt của các ngân hàng khổng lồ, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các Ngân hàng Trung ương, các chính khách... song nhiều người cho rằng, thủ phạm sâu xa nhất không phải là vài cá nhân, một số công ty tài chính, thậm chí thể chế chính trị hay kinh tế, mà là một trường phái tư tưởng.
Tư tưởng ấy là sự chấp nhận quá dễ dãi, thiếu phê phán, ý niệm “thị trường tự do” ảo huyền và không tưởng. Hệ tư tưởng ấy đã khống chế kinh tế học, trở nên lý thuyết “kinh tế học dòng chính” (mainstream economics), đôi khi gọi là “trường phái Chicago” vì Đại học Chicago là nơi tập trung đông đảo những nhà kinh tế hàng đầu có tư duy này và mạnh mẽ truyền giảng nó.
Trường phái Chicago
Hai người khai sinh “giả thuyết thị trường hữu hiệu” là Eugene Fama và Michael Jensen, đều là giáo sư kinh tế tài chính ở Đại học Chicago.Giả thuyết này có ba “phiên bản”. Theo “phiên bản mạnh” (cực đoan) của nó thì tất cả những gì mà người đầu tư cần biết đều được phản ánh trong giá của chứng khoán. Đây là một hệ quả của thuyết “kỳ vọng họp lý” (rational expectations) khống chế kinh tế học vĩ mô trong gần 30 năm nay.
Một hệ luận của thuyết “kỳ vọng họp lý” là, về lâu về dài, mọi can thiệp của Nhà nước vào thị trường đều vô hiệu hoặc phản tác dụng, nếu không thật sự là có hại. Giá cả trên thị trường là phản ánh “những giá trị căn bản”. Không thể nào xảy ra những cái gọi là “bong bóng tài sản”.
Song, nên để ý ngay chỗ tự mâu thuẫn của giả thuyết này: nếu mọi thông tin đều “gói trọn” trong giá, thì ai dại gì tìm hoặc mua thêm thông tin?
Theo phiên bản “yếu” của giả thuyết này thì không thể dựa vào giá của chứng khoán trong quá khứ để tiên đoán giá của chúng trong tương lai. Còn “phiên bản trung dung” của giả thuyết này thì cho rằng, giá chứng khoán là phản ánh những thông tin “công cộng” (public information) tức là những thông tin mà mọi người đều có được mà không tốn kém gì cả.
Nói ngắn gọn: “giả thuyết thị trường hữu hiệu” cho rằng “thị trường” là trung thực và không bao giờ sai. Trong “thế giới” của những người tin giả thuyết này, những “bất ngờ” ngoài dự đoán như các loại “bong bóng” (địa ốc hoặc tín dụng) không thể xảy ra! Nhìn từ quan điểm toán học thì “giả thuyết thị trường hữu hiệu” quả là “đẹp” tuyệt vời: mọi sự kiện đều lô-gích, chính xác, ăn khớp với nhau, đâu vào đấy.
Quả thật, mô hình toán học của giả thuyết này là quá “đẹp”: mỗi tác nhân kinh tế đều luôn luôn cư xử hợp lý (thậm chí lạnh lùng!) để “tối đa hoá” quyền lợi của mình, luôn luôn tính toán sáng suốt, với đầy đủ thông tin. Chính vì cái “đẹp toán học” của mô hình này mà “giả thuyết thị trường hữu hiệu” đã quyến rũ biết bao nhiêu nhà kinh tế.
Nói rõ ra, những nhà kinh tế này đã quá coi trọng “cái đẹp” mà không chú ý đến thực tế. Họ mê những mô hình toán cực kỳ lô-gích, thật trang nhã, bất chấp sự “hỗn độn”, “bừa bãi” của thực tế. Họ lánh mắt, không nhìn đến những trường hợp ứng xử nằm ngoài mô hình thanh lịch của họ, dù những trường hợp này đầy rẫy trên thực tế.
Ngoài những lỗi lầm chung chung của giả thuyết thị trường hữu hiệu do sự thiếu thực tế của nó, chính giả thuyết này đã là cơ sở mà một số nhà kinh tế dựa vào để cố vấn các nhà đầu tư, các ngân hàng phát hành những loại chứng khoán thứ cấp (derivatives). Dùng những công thức toán học và xác suất cực kỳ phức tạp, đó là những “bó chứng khoán” được cho là “gói ghém” một cách tối hảo mức hiểm nguy và mức lợi nhuận.
Thêm vào đó, những nhà kinh tế (cố vấn cho các ngân hàng, các quỹ đầu tư) chỉ phân tích các thị trường tài chính và chỉ nghĩ đến cách đầu tư sao cho tối hảo cho thân chủ, chứ không quan tâm gì đến tác dụng của hành vi này đến toàn bộ nền kinh tế.
Đây là một nhược điểm mà nhìn lại, quả là một nguyên do gần gũi của cuộc khủng hoảng tài chính: Khi ước tính xác suất “mất mát”, các nhà kinh tế này gán xác suất bằng zêrô cho những sự cố cực kỳ ít khi xảy ra, tức là xem như những sự cố này không thể nào xảy ra.
Song, rõ ràng là “rất ít khi xảy ra” khác với “không thể xảy ra” và hậu quả của lỗi lầm này càng “khủng khiếp” hơn khi mà tầm cỡ những mất mát khi việc khó có thể xảy ra, xảy ra là gấp trăm, gấp ngàn, những mất mát thông thường. Đó là điều đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng này!
Nói như tỷ phú Warren Buffett: Từ nhận xét là thị trường “thường” hữu hiệu, các nhà kinh tế kết luận rằng thị trường “luôn luôn” hữu hiệu! Chính Buffett đã tạo nên cơ nghiệp không phải nhờ đầu tư ở những thị trường thường hiệu quả mà ở những thị trường đôi khi không hiệu quả!
Kinh tế học “hành vi”
Trong khoảng 20 năm gần đây, một nhóm kinh tế gia đã đưa ra một lý thuyết mới gọi là “kinh tế học ứng xử” (behavioral economics). Theo họ, sự ứng xử của những tác nhân kinh tế không hoàn toàn thuần lý, mà có những “thiên lệch” do nhận thức chủ quan và những xu hướng như “thói bầy đàn”. Thái độ này chúng ta thấy hàng ngày nhưng không thể giải thích trong mô hình “tự do chọn lựa” của kinh tế học tân cổ điển.
Thí dụ một người nghiện thuốc lá, tuy chuộng tự do, có thể ủng hộ chính phủ cấm hút thuốc để giúp anh ta bỏ thuốc. Nói khác đi, theo “kinh tế học ứng xử”, hành vi con người là rất phức tạp, không thể giản đơn “mô hình hoá” nó như những tác nhân tối đa hoá lợi nhuận hoặc dụng ích như trong mô hình kinh tế tân cổ điển mà trường phái Chicago và thuyết “thị trường hữu hiệu” áp dụng không chút ngại ngùng.
“Thị trường”, theo kinh tế học ứng xử, bị ảnh hưởng không ít của cảm tính thay vì hoàn toàn là những tính toán thuần lý.
Thực ra, chủ đích của môn kinh tế học ứng xử không phải là nhằm giải thích cuộc khủng hoảng tài chính (hay một sự cố vĩ mô nào) nhưng là một đóng góp cho kinh tế vi mô. Chỉ tình cờ là, trong khi phản bác “kinh tế dòng chính”, như bị khống chế bởi “trường phái Chicago” như hiện nay, thuyết kinh tế đối xử đã như một trái mìn làm nổ tung nền móng của “giả thuyết thị trường hữu hiệu”.
Phe “kinh tế học ứng xử” thì không có nhiều ý kiến về kinh tế vĩ mô (và những người có ý kiến thì đều bênh phe Keynes). Những đề nghị của họ có phần vi mô hơn (chẳng hạn như bảo hiểm y tế phải như thế nào, hay giảm thuế phải ra sao để phản ứng của dân chúng là “hữu hiệu” nhất).
Một ví dụ: theo họ, để thực hiện miễn thuế cho mỗi người 120 USD/năm (để kích cầu) chẳng hạn thì, thay vì gửi cho người ấy một cái séc 120 USD cho trọn năm, nên gửi 10 USD hàng tháng, vì kinh nghiệm cho thấy người nhận 120 USD sẽ để dành một ít, không tiêu dùng hết 120 USD. Trái lại, nếu nhận 10 USD/tháng thì anh ta có khuynh hướng tiêu hết 10 USD/tháng, như vậy hiệu ứng kích cầu cho nền kinh tế sẽ lớn hơn!
Phương Thảo (sưu tầm)
Tin liên quan
Tin khác
Trung Quốc: Hoạt động nhà máy nối dài chuỗi thu hẹp kỷ lục
Thị trường hàng hóa: Cà-phê và dầu thô vẫn giữ sức nóng
Thị trường hàng hóa: Giá ca-cao tạo đáy, dầu thô mất đà
Thị trường hàng hóa: Lực mua quay lại giành ưu thế, MXV-Index nhích nhẹ
Xây dựng thành công trung tâm tài chính quốc tế sẽ mở ra chương mới cho Đà Nẵng
ADB bãi bỏ hạn mức cho vay, cho phép tăng 50% tổng vốn cho vay lên hơn 36 tỷ đô la
Kinh tế Nhật Bản suy giảm lần đầu tiên sau sáu quý
FMO và HDBank ký Biên bản ghi nhớ hợp tác đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng xanh và bền vững tại Việt Nam
Thị trường hàng hóa: Giá cà phê rơi, bạc lập kỷ lục tiến sát 54 USD/oz


