Kinh tế vĩ mô: Không quan ngại nhưng vẫn cần những cảnh báo
Cảnh giác các tác động tiêu cực từ bên ngoài
Trong khi gần đây, nhiều tổ chức trong và ngoài nước đưa ra dự báo, Việt Nam có thể đạt, thậm chí vượt mục tiêu tăng trưởng GDP 6,2% trong năm nay thì trong các báo cáo về triển vọng kinh tế vĩ mô (KTVM) mới nhất của mình, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á – Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc (ESCAP) lại dự báo tốc độ tăng trưởng năm nay chỉ ở các mức lần lượt là 6% và 6,1%. Tuy nhiên, cả hai tổ chức này đều dự báo lạm phát ở Việt Nam trong năm nay sẽ chỉ ở mức 2,5%, một phần chủ yếu là do giá dầu giảm.
Đáng chú ý, các tổ chức này đều cho rằng, nhiều yếu tố bên ngoài có thể tác động tiêu cực đến các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Trong đó, ông Sanjay Kalra, Đại diện thường trú của IMF tại Việt Nam đã nhắc tới một số yếu tố trong ngắn hạn gồm: Chính sách tiền tệ (CSTT) trái ngược ở các nền kinh tế phát triển lớn và biến động của thị trường ngoại hối; Tình trạng nợ công cao và vay nợ nước ngoài lớn; Tiềm năng tăng trưởng giảm; Tăng trưởng chậm lại của kinh tế Trung Quốc…
Cụ thể, IMF bày tỏ lo ngại việc các nền kinh tế phát triển lớn điều hành CSTT trái ngược nhau (như Cục Dự trữ liên bang Mỹ - Fed - dự định thắt chặt CSTT trong khi châu Âu hay Nhật Bản tiếp tục chính sách nới lỏng) có thể gây ra những tác động bất ổn về tài chính đến các nước mới nổi. “Luồng vốn vào ở khu vực châu Á – Thái bình dương vừa qua thất thường và tới đây có thể bị rút ra nhiều hơn khi Fed tăng lãi suất. Điều này hàm ý là khả năng dễ biến động luồng vốn trong khu vực sẽ lớn hơn”, ông Sanjay Kalra cảnh báo.
Trên thị trường ngoại hối, trong khi các nước có đồng nội tệ gắn với một giỏ tiền tệ ít chịu tác động thì những nền kinh tế có đồng nội tệ gắn chặt với đồng USD thì giá cũng mạnh lên theo đồng bạc xanh. “Đồng NDT của Trung Quốc gắn rất chặt với đồng USD nên cũng ghi nhận sự lên giá theo đồng USD và trường hợp của Việt Nam cũng vậy”, ông Sanjay Kalra lấy ví dụ.
Bên cạnh đó, những nước có lượng vay nợ ngoại tệ nước ngoài nhiều cũng dễ bị rủi ro khi đồng ngoại tệ đó mạnh lên, làm cho nghĩa vụ trả nợ nước ngoài tăng lên. Tất nhiên đây chỉ là rủi ro chứ không phải đã là khó khăn thực sự với nước vay nợ nếu họ ý thức được rủi ro này, đồng thời có cách quản lý tốt.
Do đó, tuy thông điệp chung là một nền kinh tế càng có chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt thì càng tránh được tác động của các cú sốc bên ngoài nhưng cũng cần cân bằng giữa một bên là tính cạnh tranh của đồng nội tệ và một bên là sự ổn định về mặt tài chính. “Bởi nếu tỷ giá thay đổi quá linh hoạt, quá mạnh trong một thời gian ngắn thì sẽ gây bất ổn cho thị trường tài chính, đặc biệt là đối với những nước mà chính phủ và DN vay nợ nước ngoài nhiều”, ông Sanjay Kalra cho biết. Chính vì vậy, các NHTW cần thận trọng trước khi quyết định điều chỉnh tỷ giá đồng tiền của mình.
Cần cân bằng giữa tính cạnh tranh của đồng nội tệ và sự ổn định về mặt tài chính trong mỗi quyết định điều chỉnh tỷ giá |
Lấy dự trữ ngoại hối để đầu tư: Không phải ý hay
Cũng nhân nói về câu chuyện vay ngoại tệ, một câu hỏi được đặt ra với ông Sanjay Kalra là các nước có sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối (DTNH) để phục vụ các nhu cầu đầu tư dài hạn không? Vị trưởng đại diện IMF tại Việt Nam cho rằng, “Đây không phải là một ý hay”.
Lý giải cho nhận định này, ông cho rằng bản thân hai từ “dự trữ” đã nói lên điều đó. Dự trữ ngoại hối của một quốc gia có mục đích chính là để sẵn sàng can thiệp để giảm thiểu những biến động bất thường hay những cú sốc quá lớn trên thị trường ngoại hối. Do đó, nếu càng sử dụng nhiều dự trữ ngoại hối để phục vụ cho các tài trợ ngân sách thì khả năng phục vụ cho các mục đích khác càng giảm xuống. Tất nhiên trên thế giới, khi các nước có nguồn dự trữ ngoại hối cực kỳ dồi dào thì họ cũng có thể dành một phần để đầu tư trong hoặc ngoài nước thông qua Quỹ đầu tư dự trữ quốc gia.
Thực tế thì đã có những nước làm như vậy. Tuy nhiên, phần dự trữ để đảm bảo đối phó với các biến động thì vẫn cần phải luôn đủ và tách bạch. Nhìn dưới góc độ đó thì nguồn dự trữ ngoại hối ở Việt Nam hiện nay chưa phải là lớn để làm được điều tương tự.
Ngoài ra, có một xu hướng trong khu vực và trên thế giới nữa mà Việt Nam cần quan tâm là tác động và hiệu quả của CSTT ở các nền kinh tế là rất khác nhau, phụ thuộc vào cấu trúc hệ thống ngân hàng và cơ chế truyền tải CSTT của nước đó. Nếu hệ thống ngân hàng tốt, cơ chế truyền tải hiệu quả thì tác động của CSTT sẽ rất nhanh và ngược lại.
Ví dụ, nếu cơ chế truyền tải CSTT tốt thì tác động của lãi suất chính sách đến lãi suất huy động và cho vay của các NHTM sẽ rất nhanh, qua đó tác động ngay đến tăng trưởng tín dụng trong nền kinh tế. Ngược lại, như tại một số nước châu Âu, hệ thống ngân hàng gặp khó khăn, cơ chế truyền tải kém khiến chính sách ban hành ra nhưng có độ trễ lớn và tác động không nhiều. Do đó, dù đã thay đổi lãi suất chính sách, nhưng lãi suất của các NHTM không thay đổi và tăng trưởng tín dụng cũng rất kém. “Hàm ý ở đây là, muốn CSTT hiệu quả, cơ chế truyền tải tốt thì cần tập trung cải thiện hệ thống ngân hàng”, ông Sanjay Kalra nói.
Nhìn về trung và dài hạn, ESCAP cho rằng, diễn biến quan trọng nhất đối với triển vọng kinh tế trung hạn của Việt Nam chính là quá trình tái cơ cấu các ngân hàng và DNNN đang diễn ra, cũng như tác động của nó đối với phát triển của khu vực tư nhân trong nước. Đồng quan điểm trên, IMF khuyến nghị cùng với việc tiếp tục giữ ổn định KTVM, Việt Nam cần tập trung vào các cải cách cơ cấu, đặc biệt là tái cơ cấu DNNN và hệ thống ngân hàng; tăng cường hiệu quả đầu tư công; cải thiện năng suất lao động; giảm thâm hụt ngân sách và giảm vay nợ nước ngoài trong tương lai…