Lo khoảng trống pháp lý trong quản lý vốn nhà nước
Một trong những nội dung thu hút đóng góp nhiều nhất là vấn đề phạm vi áp dụng Luật đối với doanh nghiệp nhà nước và dự án sử dụng vốn nhà nước. Đây cũng là phần mà hiện còn hai nhóm ý kiến khác nhau lớn và trong dự thảo Luật đang để ngỏ để Quốc hội cân nhắc quyết định. Theo đó, Điều 2, Khoản 2 đưa ra 2 phương án. Cụ thể, phương án 1, hoạt động lựa chọn nhà thầu để thực hiện: a) Các gói thầu thuộc dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp; b) Gói thầu trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động khoa học và công nghệ từ quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp nhà nước.
Và phương án 2, hoạt động lựa chọn nhà thầu để thực hiện: a) Các gói thầu thuộc dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn của doanh nghiệp nhà nước trên 50% vốn điều lệ; b) Gói thầu trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động khoa học và công nghệ từ quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp nhà nước.
Cần áp dụng cơ chế đấu thầu dự án sử dụng vốn nhà nước để có tính công khai, minh bạch, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực... |
Trong thảo luận, một số ý kiến đại biểu chọn phương án 2 vì cho rằng, quy định như vậy sẽ giúp quản lý chặt chẽ nguồn vốn đầu tư của nhà nước vào doanh nghiệp nhà nước và nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước đầu tư, góp vốn vào các doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp nhà nước nắm quyền chi phối. Là đại biểu lựa chọn phương án 2 với góc nhìn như trên, đại biểu Nguyễn Hữu Chính (Hà Nội) cho rằng: “Phương án 1 tuy phát huy được quyền tự chủ, tự quyết định kinh doanh của doanh nghiệp khi các doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ cổ phần vốn góp đã được giao cho người đại diện vốn nhà nước nhưng sẽ thu hẹp đáng kể dự án sử dụng vốn nhà nước phải đấu thầu, tạo khoảng trống trong pháp luật trong quản lý vốn nhà nước, dẫn tới toàn bộ các dự án đầu tư của công ty con của tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước… sẽ không phải đấu thầu theo quy định của điều luật này”.
Các đại biểu Khang Thị Mào (Yên Bái), Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc), Đỗ Thị Việt Hà (Bắc Giang)… cũng đồng tình với phương án 2. Trong đó, đại biểu Trần Văn Tiến lưu ý thêm: “Nếu áp dụng theo phương án 2 thì với doanh nghiệp nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống sẽ do doanh nghiệp quyết định theo Luật Doanh nghiệp, khi đó vốn nhà nước trong doanh nghiệp có thể nắm giữ đến 50% vốn điều lệ nhưng không kiểm soát được. Do vậy, tôi đề nghị đánh giá tác động đối với những trường hợp doanh nghiệp có vốn nhà nước nắm giữ đến 50% vốn điều lệ. Mặt khác, khi doanh nghiệp liên doanh, liên kết với doanh nghiệp khác nhưng tỷ trọng vốn của doanh nghiệp nhà nước thực hiện gói thầu dự án chưa đến 50% thì được xử lý như thế nào, đề nghị cơ quan soạn thảo cần làm rõ”.
Theo đại biểu Đỗ Thị Việt Hà, trong thực tế có nhiều doanh nghiệp nhà nước đã sử dụng vốn của mình để thành lập các pháp nhân (công ty con) để phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh. “Với những doanh nghiệp mà ở đó có quyền chi phối thuộc về doanh nghiệp nhà nước thì vẫn phải cần áp dụng cơ chế đấu thầu như dự án sử dụng vốn nhà nước để đảm bảo tính công khai, minh bạch, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, đồng thời sẽ quản lý được chặt chẽ nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp nhà nước nắm quyền chi phối và sẽ giữ được vai trò điều tiết trụ cột cho nền kinh tế”, đại biểu nêu vấn đề.
Thực tế, qua tổng hợp số liệu khảo sát của Ủy ban Tài chính Ngân sách đối với 13 tập đoàn, tổng công ty cho thấy, số dự án thực hiện đấu thầu ở công ty mẹ chỉ chiếm 17%, 83% còn lại được thực hiện ở các công ty con. Trong đó, số dự án đấu thầu của các công ty con là “doanh nghiệp có vốn của doanh nghiệp nhà nước 100% vốn điều lệ” là 65%, số dự án được đấu thầu của công ty con là doanh nghiệp có vốn của doanh nghiệp nhà nước có từ 50% đến 99% vốn điều lệ là 18%.
Cứng nhắc áp dụng sẽ hạn chế sự linh hoạt, chủ động
Ở chiều ngược lại, đại biểu Phan Đức Hiếu (Thái Bình) bày tỏ nhất trí với phương án 1 và đề nghị không mở rộng áp dụng Luật Đấu thầu đối với công ty con của doanh nghiệp nhà nước. “Nếu như chúng ta mở rộng phạm vi áp dụng, đánh đồng các chủ thể, áp dụng cứng nhắc một phương thức quản lý thì tôi quan ngại về sự phù hợp với chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng và hệ thống pháp luật đã được thiết kế và đang thi hành”, đại biểu này nói. Ông Phan Đức Hiếu cũng cho rằng Luật Đấu thầu không phải là công cụ duy nhất để quản lý doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta có Luật Doanh nghiệp thông qua cơ chế quản trị, giám sát nội bộ; có Luật Quản lý, sử dụng vốn đầu tư nhà nước tại doanh nghiệp (Luật số 69) cũng có cơ chế quản lý thông qua người đại diện vốn và các cơ chế giám sát, báo cáo khác.
Về các lập luận cho rằng, “việc mở rộng phạm vi áp dụng Luật Đấu thầu sẽ bảo vệ tốt hơn lợi ích của nhà nước”, vị đại biểu này không đồng tình. “Cá nhân tôi thấy khác, ngược lại, nếu như ta áp dụng cứng nhắc Luật Đấu thầu thì có thể ảnh hưởng đến sự linh hoạt, chủ động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, như vậy gián tiếp, vô hình trung lợi ích của nhà nước cũng bị ảnh hưởng chứ không phải như chúng ta suy nghĩ”, ông nói.
Cùng quan điểm, đại biểu Tạ Văn Hạ (Quảng Nam) cho rằng, khuyến khích tham gia các hoạt động đấu thầu là đúng, nhưng ở đây không có nghĩa là những hình thức lựa chọn nhà thầu cung cấp khác là không ưu việt, không hay. Điều quan trọng là phải quy định làm sao để đảm bảo không thất thoát tiền bạc của nhà nước, công khai, minh bạch nhưng đảm bảo được quyền định đoạt tài sản, tính linh hoạt, chủ động trong thực hiện và khuyến khích được xã hội hóa. Do đó, “vấn đề là vốn của nhà nước, NSNN được sử dụng trong thực hiện cho công trình, dự án là bao nhiêu để định đoạt, quyết định đấu thầu hay không đấu thầu. Tôi nghĩ phương án 1 là phương án phù hợp”, đại biểu Hạ nói.
Phát biểu giải trình làm rõ các vấn đề mà đại biểu nêu, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, phương án của Chính phủ (phương án 1) là Luật này chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật Doanh nghiệp, đồng thời bãi bỏ điểm c khoản 1 Điều 1 Luật Đấu thầu hiện hành để không áp dụng Luật này đối với hoạt động lựa chọn nhà thầu thuộc các dự án có sử dụng vốn nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư của dự án. “Phương án của Chính phủ trình không làm thu hẹp phạm vi áp dụng của Luật và vẫn đảm bảo quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn nhà nước”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh. Dự thảo Luật đã quy định tất cả các hoạt động lựa chọn nhà thầu có sử dụng vốn NSNN đều thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này. Cùng với đó, Luật 69 đã quy định rất rõ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước và nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tại các doanh nghiệp khác để áp dụng các cơ chế quản lý phù hợp cho từng loại doanh nghiệp. Phương án của Chính phủ trình đã phù hợp với các quan điểm của nghị quyết Trung ương XII cũng như Luật 69, vừa đảm bảo thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động đấu thầu của các doanh nghiệp nhà nước, vừa đảm bảo hiệu quả quản lý của nhà nước tại các doanh nghiệp này.