Nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước
Tham dự và đồng chủ trì Hội thảo có bà Phạm Thúy Chinh, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội; ông Cao Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Tài chính; ông Nguyễn Văn Hiển, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp của Ủy ban thường vụ Quốc hội; ông Florian Feyrabend, Trưởng Đại diện Viện Konrad Adenauer Stiftung tại Việt Nam.
Tham dự Hội thảo còn có đại diện các đơn vị đến từ Ủy ban Tài chính Ngân sách, các cơ quan của Quốc hội, Bộ Tài chính, các vị đại biểu Quốc hội; các chuyên gia kinh tế, các nhà khoa học đến từ Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, học viện, trường học và doanh nghiệp nhà nước.
Bà Phạm Thúy Chinh, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội phát biểu tại Hội thảo |
Những vướng mắc cần được điều chỉnh Luật
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, bà Phạm Thúy Chinh, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội cho biết, khi tổng kết Luật Quản lý, sử dụng vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp giai đoạn 2015-2021, cả nước đã có trên 800 doanh nghiệp có vốn nhà nước với tổng tài sản hơn 3 triệu tỷ đồng. Tỷ trọng tài sản cố định bình quân chiếm khoảng 33% tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp chúng ta hiện nay, khoảng 1,8 triệu tỷ đồng.
Trong đó, tổng vốn nhà nước đang đầu tư tại các doanh nghiệp này khoảng 1,67 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, những con số nêu trên cũng chưa thể hiện hết được tầm vóc, sự quan trọng, ý nghĩa của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đối với nền kinh tế, đối với đất nước trong những năm vừa qua. Vai trò này càng được thể hiện mạnh mẽ trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn, ví dụ như giai đoạn trong và sau dịch bệnh Covid-19.
Hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt động của DNNN là Luật Quản lý sử dụng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, đến nay cũng đã được ban hành gần 10 năm. Hành lang pháp lý của Luật cũng tạo được một khuôn khổ trong việc quản lý, sử dụng vốn tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu, bối cảnh hội nhập cũng như chủ trương tái cơ cấu lại khu vực DNNN
Tuy nhiên, với các hoạt động, vận hành của Luật này trong những năm vừa qua cũng đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp cũng như chưa đáp ứng được các định hướng, chủ trương mới của Đảng trong việc xây dựng một khuôn khổ, một khu vực doanh nghiệp nhà nước rất quan trọng.
Theo phân tích của bà Phạm Thúy Chinh, có hai khó khăn chính hiện nay. Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của Luật chưa thực sự tách bạch, chưa phân định được một cách rõ ràng chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu tài sản vốn nhà nước với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai, việc đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp cũng chưa có được một sự chủ động, chưa có được một hành lang để cho các doanh nghiệp hoạt động một cách linh hoạt, kịp thời theo các tín hiệu của thị trường. Việc đánh giá, xếp loại doanh nghiệp cũng như việc đánh giá khả năng bảo toàn vốn của doanh nghiệp cũng chưa phù hợp với thực tiễn của doanh nghiệp nhà nước…
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập của Luật 69, thực hiện chủ trương của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật cho thấy sự cần thiết và tương đối cấp bách của việc sửa đổi một cách căn bản và toàn diện của Luật 69 của Quốc hội.
Thừa nhận cần sửa Luật, tuy nhiên bà Phạm Thúy Chinh cũng cho rằng: “Đây là một Luật rất khó, rất nhiều chiều và giải quyết cùng một lúc rất nhiều mục tiêu, do đó cần đánh giá, nghiên cứu, thiết kế một khuôn khổ pháp lý mới một cách hết sức kỹ lưỡng, thận trọng để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra trong thời gian vừa qua”.
Cho ý kiến tại Hội thảo, ông Florian Feyerbend cũng hoàn toàn đồng tình với việc cần thiết phải sửa đổi Luật để phù hợp với những thay đổi mang tính đột phá của nền kinh tế Việt Nam sau gần 10 năm Luật được ban hành.
Đại diện Viện Konrad cũng cho rằng, những doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước đang hoạt động rộng khắp các lĩnh vực và trải dài hầu hết các địa phương trong cả nước. Những doanh nghiệp này đang tạo công ăn việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Việc điều chỉnh Luật 69 sẽ có tác động rất lớn đến các doanh nghiệp nêu trên, người lao động và cả địa phương nơi DN có trụ sở.
“Do đó, tại buổi Hội thảo, có nhiều chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật, cả những nhà lập pháp để chúng ta có thể thảo luận những nội dung nào Luật có thể điểu chỉnh”, theo đại diện Viện Konrad
Tại Hội thảo, đại diện cơ quan soạn thảo - Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn đã trình bày về quá trình triển khai xây dựng hồ sơ dự án Luật. Theo đó, đến nay đề nghị xây dựng Luật thay thế Luật 69/2014/QH13 chưa được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội/Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Bộ Tài chính đã nghiêm túc tiếp thu ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, tập trung quyết liệt và xây dựng hồ sơ đề nghị xây dựng Luật theo đúng quy trình, trình tự của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Thường trực Chính phủ, Chính phủ nhiều vòng.
“Đến nay, cơ bản hồ sơ đề nghị xây dựng Luật đã được Bộ Tài chính tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện theo yêu cầu của Chính phủ để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp luật theo quy định”, Thứ trưởng Cao Anh Tuấn cho biết.
Nâng cao tính cạnh tranh của DNNN
Tại phiên thảo luận thứ nhất, nhiều nội dung quan trọng đã được các đại biểu đặt ra như: Việc điều chỉnh luật tập trung cốt lõi vào các vấn đề kinh tế vĩ mô kết nối với các thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp; Tách bạch giữa đầu tư vốn của nhà nước vào doanh nghiệp với đầu tư của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh; Phân biệt quyền chủ sở hữu cùng các quyền của bên vận hành doanh nghiệp. Đặc biệt, ý kiến nhiều đại biểu đề nghị Luật cần làm rõ DNNN chỉ nên đầu tư vào ngành, lĩnh vực nào…
Trao đổi những kinh nghiệm từ CHLB Đức, ông Leif Dustin Schineider, Phó Chủ tịch Tiểu ban pháp luật, Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam cho biết, việc sử dụng vốn nhà nước trong doanh nghiệp thương mại có thể mang lại những lợi ích nhất định như giúp kiểm soát đầu tư chiến lược; tăng cường sự ổn định của thị trường; thúc đẩy lợi ích công cộng. Tuy nhiên, việc này cũng mang lại không ít rủi ro như sự kém hiệu quả hay quan liêu trong quản trị; trì hoãn hoặc thiếu sự đổi mới sáng tạo; sự can thiệp chính trị quá mức và bóp méo cạnh tranh thị trường công bằng.
Do đó, theo ông Leif Dustin Schineider, Việt Nam có thể tối đa hóa lợi ích và hạn chế những cạm bẫy của sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thương mại bằng cách thực hiện cơ chế quản trị hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình; thực hiện quản lý và giám sát chặt chẽ; Tuân thủ các thông lệ quốc tế tốt nhất về quản trị và cơ cấu bằng cách tuân theo những hướng dẫn này, các DNNN có thể nâng cao hiệu quả hoạt động, mang lại giá trị cho các bên liên quan và đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước, ông Leif Dustin Schineider nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, TS. Trần Văn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra của Quốc hội khóa XIV nêu quan điểm, chỉ cần phân loại 2 nhóm doanh nghiệp để đầu tư đó là nhóm doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường bình đẳng để phát triển và nhóm doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số quốc gia và năng lượng trong khoa học công nghệ, những doanh nghiệp phát triển hạ tầng then chốt hoặc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh.
Góp ý vào cách tiếp cận xây dựng Luật, GS.TS. Nguyễn Văn Giàu, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra của Quốc hội khóa XIII, Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội khóa XIV cho rằng, ban soạn thảo nên nghiên cứu và sửa đổi dự án Luật dựa trên nền của Luật hiện hành và cập nhật những vấn đề mới nảy sinh phát sinh, tổng kết, luật hóa các quy định dưới Luật để khi Luật được thông qua tạo hành lang pháp lý và đem lại hiệu quả sử dụng đồng vốn nhà nước một cách hiệu quả nhất.
Góp ý chi tiết vào các nội dung tại dự thảo dưới góc nhìn doanh nghiệp, Đại tá Ngô Minh Thuấn, Tổng giám đốc Công ty Tân Cảng đề nghị, cần đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trên cơ sở tổng thể, mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp, không tách bạch đánh giá theo từng dự án đầu tư để từ đó thể phát huy tinh thần tự chủ, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cho phép DNNN kinh doanh hiệu quả nhiều năm liền được phép giữ lại một phần lợi nhuận sau thuế, sau khi trích lập các quỹ theo quy định để bổ sung vào vốn điều lệ được duyệt nhằm phục vụ đầu tư phát triển các dự án, đảm bảo khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế…