Nhớ tranh dân gian Kim Hoàng
“Tranh Đỏ” là cái tên thường được dân gian gọi để phân biệt tranh dân gian Kim Hoàng và các loại tranh dân gian khác như Đông Hồ hay Hàng Trống. Giấy in không quét điệp như tranh Đông Hồ, cũng không dùng giấy xuyến, giấy dó như tranh Hàng Trống (tranh trắng mộc) mà tranh Kim Hoàng in trên giấy màu đỏ, giấy hồng điều, giấy tàu vàng.
Tranh lợn bột in hình con lợn mình đen, viền trắng cách điệu rất ngộ nghĩnh giống như những con lợn đất bán ở chợ, trên nền giấy đỏ tạo một vẻ đẹp riêng gây ấn tượng mạnh mẽ của tranh Kim Hoàng.
So với tranh Đông Hồ, thì tranh Kim Hoàng cũng mang nhiều yếu tố khác biệt. Có lẽ do gần gũi với chốn thị dân hơn, nên khi vẽ, sản xuất tranh dù phục vụ nông dân nhưng từ nguyên liệu đến cảm hứng thẩm mỹ đều chịu ảnh hưởng của thành thị.
Dân Kim Hoàng thuộc nhiều họ khác nhau ở xen lẫn, các họ Nguyễn Sĩ (đông nhất), Nguyễn Thế, Trần Đức, Trần, Phạm, trước kia có làm tranh và đã tổ chức được phường tranh Kim Hoàng.
Theo truyền thống, khi còn tổ chức phường tranh thì toàn bộ ván là tài sản của phường, do chủ phường giữ, hàng năm đến ngày rằm tháng mười một âm lịch, sau khi làm lễ giỗ ông Tổ phường, ván được chia cho các gia đình mang về in. Trong quá trình sản xuất tranh Tết, các gia đình có thể đổi ván cho nhau để in nhiều mẫu. Hết mùa ván in lại tập trung giao cho chủ phường giữ.
Các cụ ở Kim Hoàng còn nhớ tranh Tết trước đây có nhiều loại khác nhau, phổ biến nhất là tranh thờ gồm các bức Ông Công (tức Thổ Công), Ông Táo (tức Táo Quân) và Ông Sư (tức Tiên sư). Đấy là ba vị thần mà các gia đình nông dân hay thợ thủ công nào cũng rất sùng kính.
Các tranh để trang trí nhà cửa, đồng thời để cầu mong làm ăn phát đạt, may mắn, thì có các bức Tiến Tài, Tiến Lộc, Lợn Gà. Các tranh Đi cày và Đi bừa vừa nói lên sự lao động vất vả, vừa tỏ ý cầu mong được no ấm. Vui nhất là những tranh về cảnh sinh hoạt tình tứ của trai gái như Hứng dừa và cảnh hội làng như Đánh vật, Chọi trâu, Chọi gà tỏ rõ một tinh thần thượng võ cao.
Lại có cả những tranh mang tính răn dạy theo phương ngôn như “Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”, hay theo tích truyện hiếu nghĩa trong “Nhị thập tứ hiếu” hoặc vài cảnh trong truyện Nôm dân gian như Thạch Sanh.
Ngoài ra còn có những bức hoành đại tự “Đức lưu quang” (Đức tốt giữ mãi ánh sáng) và “Phúc mãn đường” (Phúc chứa đầy nhà) mà trong từng nét chữ còn được cài hoa lá, thể hiện cảnh sắc bốn mùa. Cùng với những hình ảnh, trong nhiều tranh còn khắc kèm cả bài thơ hoặc câu đối hay một lời chúc tụng để nói rõ chủ đề của bức tranh.
Màu của tranh, ngoài màn nền, trước hết là “màu đen” in từ ván gỗ lên giấy. Màu này lấy từ những thỏi mực đen mực tàu. Bảng màu ở Kim Hoàng cũng giống như Đông Hồ còn có: trắng, vàng, xanh lơ, xanh lá cây (xanh lục), chàm, tím, hồng, đỏ sẫm. Trừ màu chàm mua nguyên liệu về chế lấy, các màu khác đều có bán ở thị trường. Muốn có màu chàm thì đem cây chàm ngâm riêng cành và lá, sau đó chắt bỏ nước trong, rồi gạn lấy chất cái đánh nhuyễn ra.
Màu chàm thường trộn với mực đen để tạo ra thứ màu xanh đen. Màu trắng thì mua phấn thạch cao, ngâm nước cho mềm rồi đánh nhuyễn. Các màu trên, khi dùng phải pha keo da trâu. Khó pha nhất là màu phẩm hồng, pha khéo thì được màu cánh sen tươi, không đúng cách thì chuyển thành màu máu đỉa.
Tranh Kim Hoàng bắt đầu làm từ sau lễ giỗ tổ cho đến giáp Tết. Thời tiết giá rét làm cho phẩm pha vào keo sẽ đông quánh, vì thế bát màu phải đặt trên bếp nóng để vẽ. Nếu bếp nóng quá, màu phạm sẽ không tươi mà bị xỉn lại. Các màu sa thanh và sa lục là bột đất, nên sau khi chấm màu mà để khô thì sẽ hơi nháp.
Chấm màu xong, các nét in ban đầu bị phủ đè gần hết, nên giữa các mảng màu không còn đường bờ gìm giữ lại, sẽ bồng bềnh, chao đảo. Tờ tranh để vậy coi như xong. Nhưng muốn tăng hiệu quả nghệ thuật phải được nâng cao bằng kỹ thuật in đồ, tức in lại nét đen lên trên các mảng màu, in sao cho trùng với nét đen in ban đầu. In đồ là việc khó, chỉ những người cứng tay nghề mới làm được.
Đến những ngày giáp Tết Xưa, không khí làm tranh lại càng nhộn nhịp ở các gia đình làm tranh, mọi người làm việc tất bật, làm ngày rồi tối đến lại chong đèn ba dây mà chấm phẩm. Tranh Kim Hoàng được quẩy về các chợ như Sơn Đồng, chợ Chùa Thầy, chợ Phùng, chợ Vạng, chợ Diễn, chợ Tây Tựu…
Theo các cụ kể lại, những năm phát đạt, đi chợ bán tranh về phải được một gánh tiền Tự Đức nặng. Ngày nay, khi làng nghề hoàn toàn thất truyền, một vài ván in của dòng tranh này còn được lưu giữ ở bảo tàng mỹ thuật Việt Nam. Một số khác, được nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế ở Làng Hồ (Đông Hồ) sưu tập được.