Sửa đổi Luật các TCTD là cấp thiết
Báo cáo thẩm tra việc đưa dự án Luật các TCTD (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết nhất trí với sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật các TCTD để thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội nhằm bảo đảm an toàn của hệ thống các TCTD, đổi mới hoạt động ngân hàng theo nội dung nhiệm vụ trọng tâm cơ cấu lại nền kinh tế theo định hướng, quan điểm, mục tiêu đã được Đảng, Quốc hội và Chính phủ đề ra. Đồng thời, khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện Luật các TCTD hiện hành, đặc biệt là trong thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD theo Nghị quyết số 42/2017/QH14, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp |
Về các chính sách trong đề nghị xây dựng Luật, 6 chính sách được đề xuất trong đề nghị xây dựng Luật là phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, cơ bản bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tương thích trong hệ thống pháp luật và có tính khả thi. Tuy nhiên, đây là dự án Luật khó, phức tạp, liên quan đến nhiều luật và nhiều cam kết quốc tế, do đó đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đối chiếu với các quy định của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tính tương thích với các cam kết quốc tế.
Về Chính sách 1: Hoàn thiện quy định về nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Kinh tế tán thành với đề xuất các nội dung của chính sách; tuy nhiên, trong các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung, đề nghị thuyết minh, làm rõ hơn một số vấn đề.
Việc sửa đổi quy định đối với thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) độc lập được lý giải do khó khăn trong tìm kiếm và lựa chọn nhân sự đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn làm thành viên HĐQT độc lập theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 50 của Luật các TCTD. Tuy nhiên, tại Tờ trình lại đề xuất tăng số lượng thành viên HĐQT độc lập (tối thiểu 02 thành viên) là mâu thuẫn, chưa hợp lý. Trong khi đó, tại Đề cương dự thảo Luật lại đề xuất sửa đổi theo hướng cho phép thành viên HĐQT độc lập được kéo dài thêm tối đa 01 nhiệm kỳ. Do đó, đề nghị thuyết minh, làm rõ hơn về dự kiến sửa đổi quy định đối với thành viên HĐQT độc lập.
Việc sửa đổi quy định về tổ chức, quản trị của Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) có liên quan trực tiếp đến các quy định tại dự thảo Luật Hợp tác xã (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 5, đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát các nội dung của đề nghị xây dựng Luật với dự thảo Luật Hợp tác xã (sửa đổi) để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, đặc biệt cần phân định rõ phạm vi áp dụng của hai luật này. Bên cạnh đó, các nội dung liên quan đến quyền của Đại hội thành viên, vai trò của Ngân hàng Hợp tác xã đã được tổng kết cho thấy có nhiều vướng mắc nhưng chưa được định hướng sửa đổi tại Đề cương dự thảo Luật.
Về việc sửa đổi tỷ lệ trích Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, đề nghị đánh giá một cách tổng thể, toàn diện các TCTD, không chỉ đối với các TCTD do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.
Việc sửa đổi quy định về giới hạn sở hữu cổ phần, sở hữu của cổ đông lớn và người có liên quan của cổ đông lớn là hết sức cần thiết, đặc biệt nhằm khắc phục tình trạng thao túng, lạm dụng quyền của cổ đông lớn hoặc tình trạng “sân sau” của các TCTD. Tuy nhiên, đề nghị đánh giá kỹ lưỡng, làm rõ nguyên nhân của tình trạng sở hữu chéo giữa các TCTD tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống do quy định pháp luật bất cập hay do tổ chức thực hiện, từ đó có các đề xuất phù hợp (ví dụ, nếu chỉ giảm tỷ lệ sở hữu thì có giải quyết được triệt để tình trạng sở hữu chéo đang ngày càng tinh vi hay không).
Về Chính sách 2: Hoàn thiện quy định về hoạt động và bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, QTDND, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Kinh tế nhận thấy, cơ quan soạn thảo đã đề xuất nhiều giải pháp để sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động và bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD, QTDND. Tuy nhiên, một số vấn đề tồn tại, vướng mắc đã được chỉ ra tại Báo cáo tổng kết thi hành Luật nhưng chưa được nghiên cứu để đề xuất sửa đổi; chưa có giải pháp để giải quyết được căn nguyên cốt lõi của một số tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra trong Báo cáo tổng kết. Đồng thời, đối với các hoạt động mới như giao đại lý ngân hàng hoặc dịch vụ ngân quỹ, cần phải phân tích thêm về kinh nghiệm quốc tế; đánh giá tổng thể về chủ thể, đối tượng triển khai, khả năng quản trị rủi ro của TCTD, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và tác động khi triển khai.
Ngoài ra, đề nghị tiếp tục rà soát các quy định nhằm bảo đảm an toàn hoạt động của các TCTD nói riêng và hệ thống các TCTD nói chung, bảo đảm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, như quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, giới hạn cấp tín dụng, kiểm soát tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro lớn....; tăng cường các quy định về phòng ngừa rủi ro, kiểm soát nội bộ của TCTD, xử lý các tình huống phát sinh ảnh hưởng lớn đến thanh khoản của TCTD và của hệ thống các TCTD.
Về Chính sách 3: Hoàn thiện quy định về dịch vụ ngân hàng qua phương tiện điện tử và số hóa dịch vụ ngân hàng, hỗ trợ, thúc đẩy, quản lý ngân hàng số tạo nền tảng cho việc ứng dụng các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Kinh tế tán thành với đề xuất hoàn thiện các quy định liên quan đến dịch vụ ngân hàng qua phương tiện điện tử, hướng tới ngân hàng số. Đây là yêu cầu tất yếu và cần thiết trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, mang đến nhiều thời cơ cũng như thách thức cho dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng. Đây là chủ trương không mới, đã được luật hóa trong một số luật ban hành trong thời gian gần đây, tuy nhiên lại là chính sách hoàn toàn mới của dự án Luật này.
Tuy nhiên, để bảo đảm chính sách được triển khai có hiệu quả, nhất là đối với lĩnh vực ngân hàng, tín dụng là lĩnh vực có tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro về an toàn, an ninh mạng, an toàn tài chính và thông tin, dữ liệu cá nhân, đề nghị cần rà soát kỹ lưỡng các quy định của pháp luật hiện hành để đề xuất các quy định phù hợp, bảo đảm sự phát triển của hoạt động tín dụng trên không gian mạng, nhưng vẫn bảo đảm an ninh, an toàn chung trong hoạt động tín dụng. Đồng thời, cần lưu ý làm rõ nội hàm và khái niệm “ngân hàng số” để bảo đảm tính thống nhất, khả thi khi triển khai (ví dụ như ứng dụng công nghệ số hay số hóa hoàn toàn).
Ngoài ra, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị cần quan tâm bảo đảm sự đồng bộ với nội dung dự thảo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) đang được Quốc hội xem xét, cho ý kiến và việc thực hiện nhiệm vụ lập pháp về nghiên cứu xây dựng dự án Luật điều chỉnh về công nghiệp công nghệ số theo yêu cầu của Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15. Bên cạnh đó, cần làm rõ phương thức bảo đảm an ninh, an toàn trong tất cả các khâu, nhất là khâu thẩm định, cấp tín dụng, quản trị rủi ro, kiểm soát sau cho vay gắn với trách nhiệm của TCTD, việc liên kết, liên thông qua hệ thống điện tử trong toàn hệ thống khi triển khai ngân hàng số để vừa bảo đảm thúc đẩy các TCTD phát triển các dịch vụ gắn với chất lượng, hiệu suất, hiệu quả, vừa bảo đảm giảm thiểu những rủi ro phát sinh đối với an ninh, an toàn hệ thống, nguy cơ rửa tiền hoặc vi phạm pháp luật qua không gian mạng đối với hệ thống các TCTD.
Về Chính sách 4: Hoàn thiện các quy định nhằm tạo cơ sở thúc đẩy quá trình cơ cấu lại các TCTD và xử lý TCTD yếu kém là phù hợp với chủ trương của Đảng, của Quốc hội. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025, trong đó đề ra nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và bổ sung cơ chế hỗ trợ cho các TCTD tham gia cơ cấu lại các TCTD yếu kém để hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến tài chính và hoạt động. Tuy nhiên, đề nghị đánh giá rõ các vướng mắc và nguyên nhân của tình trạng xử lý các ngân hàng mua bắt buộc rất chậm trong thời gian qua để đề xuất phù hợp, bảo đảm hiệu quả, khả thi; đánh giá tổng thể hiệu quả của việc huy động các nguồn lực tham gia vào cơ cấu lại hệ thống các TCTD (như các ngân hàng thương mại tham gia hỗ trợ, Bảo hiểm tiền gửi, Ngân hàng Hợp tác xã...). Ngoài ra, việc đề xuất quy định về cho vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm cần phải được cân nhắc, đánh giá kỹ lưỡng cả về quy mô, mức độ, rủi ro, trách nhiệm liên quan để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng cũng như đối với nền kinh tế.
Về Chính sách 5: Quy định về xử lý nợ xấu và Chính sách 6 quy định về xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Kinh tế tán thành việc bổ sung các quy định về xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu vào dự thảo Luật các TCTD (sửa đổi) theo hướng luật hóa một số quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm có hiệu quả, phù hợp tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD, nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho công tác xử lý nợ xấu, nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, bảo đảm sự phát triển ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD. Thực tiễn triển khai thời gian qua cho thấy, một số chính sách của Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã phát huy tác dụng tích cực như thu giữ tài sản bảo đảm, mua bán các khoản nợ xấu... nhưng cũng còn những vướng mắc, bất cập từ quy định của Nghị quyết và nhất là trong quá trình tổ chức thực thi.
Ngoài ra, các nội dung dự kiến đưa vào dự thảo Luật có liên quan đến quy định của nhiều luật khác (Bộ luật Dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Luật Nhà ở, Luật Quản lý thuế...) và trách nhiệm của nhiều Bộ, ngành, cơ quan liên quan (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân cấp xã...). Do vậy, đề nghị rà soát kỹ lưỡng, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật cũng như trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các Bộ, ngành, cơ quan liên quan; việc luật hóa phải bảo đảm không hợp thức hóa các hành vi trái pháp luật.
Đối với một số quy định cụ thể như quyền thu giữ tài sản bảo đảm; tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu; thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm... cần tiếp tục rà soát các vướng mắc trong thực tiễn, làm rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan để bảo đảm hiệu quả, khả thi khi cụ thể hóa trong Luật.
Ngoài các nội dung trên, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị quan tâm rà soát trách nhiệm quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà nước và các cơ quan liên quan, nhất là trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm; vấn đề công khai, minh bạch thông tin về hoạt động của các ngân hàng… bảo đảm sự đồng bộ trong công tác quản lý và tính toàn diện của dự thảo Luật.
“Trên cơ sở xem xét tính cấp thiết của việc sửa đổi Luật các TCTD và nội dung các chính sách được đề nghị, Thường trực Ủy ban Pháp luật và các cơ quan thống nhất trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định bổ sung dự án Luật này vào Chương trình năm 2023, trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5, thông qua tại kỳ họp thứ 6. Bên cạnh đó, để bảo đảm không có khoảng trống pháp luật khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 về xử lý nợ xấu của các TCTD hết hiệu lực (ngày 31/12/2023), đề nghị Chính phủ lưu ý xem xét để xác định thời điểm có hiệu lực của các quy định có liên quan đến nội dung này trong Luật một cách phù hợp”, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Hoàng Thanh Tùng đề nghị.