Tín dụng học sinh, sinh viên: Cần tiếp cận theo hướng thị trường
Nhận định về chương trình, GS. Vũ Kim Dũng, Trưởng Khoa Kinh tế học, đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội cho rằng tín dụng học sinh, sinh viên đã làm tốt vai trò chính sách trong việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực tương lai. Với đồng vốn vay tuy nhỏ nhưng cũng đã giúp cho nhiều bạn trẻ có cơ hội hoàn thành giấc mơ trí thức của mình.
Tuy nhiên, những năm gần đây, doanh số cho vay của chương trình này giảm dần. Theo đánh giá của Ngân hàng Chính sách xã hội, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó nguyên nhân chính do nhu cầu vay giảm mạnh.
Phân tích thực trạng hiện nay, GS. Dũng cho biết: Là một chương trình tín dụng chính sách thì việc hỗ trợ cũng chỉ có thể nằm trong một giới hạn nhất định về hạn mức và thời gian của khoản vay.
Bản thân các em học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh cũng không thể coi đây là một nguồn kinh phí duy nhất để đảm bảo cho việc học tập và sinh hoạt của các em trong quá trình học tập.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, tỷ lệ các em ra trường không xin được việc làm ngày càng cao, hoặc có xin được việc thì mức lương cũng không đủ sinh hoạt tối thiểu và trả khoản nợ vay trước đó của chương trình, dẫn đến rủi ro nợ xấu của chương trình tín dụng học sinh, sinh viên ngày càng lớn.
Do đó, theo GS. Dũng, cần phải xem tín dụng học sinh, sinh viên như một kênh tín dụng thị trường và chỉ có một phần hỗ trợ của Nhà nước. Cần phải mở rộng đối tượng thụ hưởng chương trình với những học sinh, sinh viên học giỏi, hoặc theo học những ngành học được khuyến khích.
Ngoài ra những đối tượng gia đình các em có tài sản hoặc chứng minh được thu nhập trong tương lai cũng nên được đưa vào diện xem xét cho vay để đầu tư cho học tập.
Nói về lãi suất, GS. Dũng cũng cho rằng không nhất thiết phải có lãi suất hỗ trợ quá thấp, mà điều quan trọng là việc giải ngân phù hợp với nhu cầu của học sinh, sinh viên và lộ trình việc trả nợ góp cũng cần phải hợp lý.
Cùng quan điểm cần có những kênh tín dụng học sinh, sinh viên theo hướng thị trường, nguyên Trưởng Khoa Ô tô, máy kéo, đại học Bách khoa Hà Nội, GS. Dư Quốc Thịnh thông tin thêm, lấy ví dụ những ngành đang “hót” tại trường của ông như tin học, cơ điện tử, tự động hoá, môi trường… thì chi phi đào tạo thường cao.
Do đó, đương nhiên mức đóng góp học phí của học sinh, sinh viên cũng cao hơn các ngành khác. Đổi lại, khi sinh viên ra trường sẽ có cơ hội việc làm rất lớn và thu nhập cũng cao hơn mặt bằng chung.
Nhưng có một thực tế đáng buồn là tại trường đã có một số sinh viên mặc dù đã có được nguồn hỗ trợ của nguồn tín dụng học sinh, sinh viên nhưng vẫn phải bảo lưu kết quả để đi lao động làm thêm, chờ cơ hội tích lũy về kinh tế mới có thể tiếp tục theo học.
Như vậy, rõ ràng nhu cầu vay vốn để đầu tư học tập là rất lớn. Mặc dù Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện chính sách tín dụng học sinh, sinh viên, nhưng chỉ một kênh tín dụng chính sách này thì chưa thể đáp ứng được nhu cầu.
Nên chăng, các ngân hàng thương mại xây dựng những gói tín dụng đầu tư cho giáo dục hoàn toàn thị trường. Đặc biệt là cơ cấu về điều kiện vay vốn, thời gian giải ngân và hạn trả nợ… linh hoạt theo các chương trình học và khả năng tài chính của gia đình học sinh, sinh viên.
Được như vậy, các gia đình sẽ có thêm cơ hội đầu tư cho đào tạo, cho tương lai của con em mình, qua việc chọn đúng những ngành nghề theo đúng năng lực của các em mà xã hội đang cần.
Về phía ngân hàng, làm tốt điều này cũng phát triển một kênh tín dụng kinh doanh tốt, còn có ý nghĩa về xã hội, hỗ trợ cho việc đào tạo nguồn nhân lực một cách thực tế gắn kết với nhu cầu phát triển của đất nước.