Về một nhà thơ lính trận
Làng Đông Bích của xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An có dòng họ Vương nổi tiếng khoa bảng xưa nay. Chỉ nói riêng về văn chương thời hiện đại, họ Vương làng Đông Bích đã có tới 3 người là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đó là 3 nhà thơ Vương Trọng, Thạch Quỳ (Vương Đình Huấn) và Vương Cường; chưa kể hàng chục tác giả, nhà nghiên cứu và văn nghệ sĩ đang công tác tại các cơ quan văn học, nghệ thuật ở Trung ương và các địa phương. Có nhà nghiên cứu ở Hà Nội viết về dòng họ Vương trên đây đã gọi đó là “Vương gia văn phái”, tương tự như Ngô gia văn phái của bộ đại thư Hoàng Lê nhất thống chí cuối thế kỷ XVIII.
Tiến sĩ, nhà thơ Vương Cường |
Ba nhà thơ Vương Trọng, Thạch Quỳ và Vương Cường là những chú cháu, anh em trực hệ. Vương Trọng và Thạch Quỳ sinh đầu thập niên 40 của thế kỷ trước, là những cử nhân toán học trước khi trở thành những nhà thơ nổi tiếng từ khoảng cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vương Cường tuy kém hơn chục tuổi nhưng xứng đáng là “hậu sinh khả úy”. Tháng 5/1972, đang học năm thứ tư Đại học Xây dựng thì anh gác bút nghiên ra trận, được biên chế về đại đội 1, tiểu đoàn 1, trung đoàn 101 thuộc sư đoàn 325, tham gia chiến đấu bảo vệ thành cổ Quảng Trị suốt “mùa hè đỏ lửa” năm 1972 và cuộc đấu tranh giữ dân, giữ đất, thi hành Hiệp định Pari năm 1973-1974 ở đôi bờ Thạch Hãn. Mùa xuân năm 1975, anh theo đại quân binh đoàn Hương Giang tham gia giải phóng các tỉnh miền duyên hải rồi tiến về Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau chiến tranh, anh trở về trường cũ, học tiếp chương trình. Tốt nghiệp Đại học Xây dựng loại giỏi, anh được chọn đi học tiếp ở Trường Tuyên huấn Trung ương, thuộc lớp tạo nguồn…
Giỏi toán và mê văn hệt như 2 bậc đàn anh là Vương Trọng và Thạch Quỳ, Vương Cường âm thầm làm thơ từ những ngày cầm súng, nhưng phải đến khi bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ kinh tế và khẳng định năng lực của một cán bộ nghiên cứu - giảng dạy tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Vương Cường mới công bố những bài thơ của mình và “công khai”… làm thơ! Từ năm 1997 đến 2017, anh lần lượt công bố 4 tập thơ và chính thức trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Thơ Vương Cường già dặn, gân guốc, vạm vỡ. Ít quan tâm đến thi pháp, giọng điệu, cách tân… nhưng thơ anh không mòn cũ, dễ dãi. Vương Cường dụng công đào sâu vào những mạch suy tưởng đa diện, những liên tưởng đa tầng. Đọc thơ anh, có cảm giác như anh không “cố gắng” khi làm thơ, bởi ý và tứ của mỗi bài thơ hòa nhập với cảm xúc hết sức tự nhiên.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo - cũng là một cựu chiến binh chống Mỹ - nhận xét về Vương Cường: “Không ai giao cho anh cái gánh nặng vết thương lòng, nhưng Vương Cường đã tự nguyện mang vác nó cho tới ngày chung cuộc. Thơ anh đầy ắp những vết thương chiến tranh, dù cỏ đã phủ xanh… Đó không chỉ là cuộc chiến tranh đã qua nhưng chưa bao giờ ra khỏi chính anh, mà đó còn là một cuộc chiến khác về lòng tự hào và sự ăn năn của những người còn sống...”.
Quả thật, trong gia tài thơ của Vương Cường, mảng thơ viết về chiến tranh và người lính chiếm một số lượng khá lớn, nếu không muốn nói rằng đề tài chiến tranh và người lính là cảm hứng chủ đạo trong thế giới nghệ thuật của Vương Cường. Điều đó chẳng có gì là đặc biệt. Thế hệ cầm bút của anh, nhiều người sau trước vẫn thủy chung với đề tài này, tiếp tục thâm canh trên cánh đồng quen thuộc và gặt hái thành công.
Điều đặc biệt của Vương Cường là ngay từ khi cầm súng và cầm bút trên chiến trường, thơ anh đã rất ít tiếng hoan ca mà thường nghiêng về những nỗi niềm, chiêm nghiệm, cảnh báo những vấn đề mà nhiều năm sau khi chiến tranh kết thúc mới bộc lộ. Có lẽ vì thế mà cũng phải rất lâu sau chiến tranh anh mới công bố những bài thơ ấy và công chúng mới biết thêm một nhà thơ áo lính? Đây là những dự cảm của anh trong những năm tháng ấy: Những khu rừng cháy/ Những bãi bom/ Những câu thơ bị thương/ Lấp lánh/ lăn/ lăn/ lăn…/ Cơn giông không xóa được! Và đây là những câu thơ anh viết trước của ngõ Sài Gòn trong ngày cuối cùng của tháng Tư năm ấy:
Chúng tôi đẩy mặt trời lên
Để nhìn rõ Sài Gòn phía trước
Để viên đạn bay đi khỏi lạc
Bầy chim xòe quạt đón mặt trời…
Tâm thế, cảm xúc, suy tưởng ấy vẫn tiếp tục trong những sáng tác sau này của Vương Cường, khi anh nhìn nhận: Có một thời khóc cũng thành thơ/ Có một đời, thơ ròng ròng nước mắt… Không khóc sao được khi: Thành Cổ ơi/ Mỗi ngày tôi mất một trăm năm mươi người bạn/ Tám mốt tầng/ Tháp lửa và hoa… Không khóc sao được khi mỗi lần về lại bên dòng Thạch Hãn, anh lại thảng thốt ngỡ như những đồng đội đang nằm dưới đáy sông đòi anh “cõng bạn đi chơi”, để rồi: Mày loạng choạng vào bàn thờ thắp hương/ Lại gặp mình ngồi cười sau nải chuối. Không khóc sao được trước cảnh một thương binh chống nạng hành hương để thắp nhang tưởng niệm một phần thân thể của mình được chôn tại trạm phẫu tiền phương, để rồi thành “người chết hai lần chưa trọn cuộc đi”. Nhưng cũng có khi, anh không thể khóc nổi trước cảnh huống của một người đồng đội sau gần nửa thế kỷ gặp lại:
Nếu không có cặp mắt thuở Cùa sót lại
Tôi làm sao nhận được bạn tôi:
Cụ già ngồi kia hát dỗ
Hai cụ già con ú ớ cười (!)
Mọi ngôn ngữ đến đây đều bất lực…
Chính vì thế mà có lần hành hương về Thành Cổ, anh ước nguyện: Giờ bạn cỏ non hát về tương lai/ Giờ bạn thông ru bảo tàng lòng đất/ Tôi mơ làm chó đá/ Đứng canh chừng lãng quên…
Trưa ngày 30/4, các xe tăng của quân đội miền Bắc Việt Nam và lực lượng vũ trang của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến vào Dinh Độc Lập |
Có một điều khá thú vị là đọc những bài thơ của Vương Cường viết trong mùa Xuân năm 1975, có cảm giác như đang được đọc “nhật ký” của một người lính trong cánh quân miền duyên hải trên đường truy kích “thần tốc, thần tốc hơn nữa…” của Mùa Xuân Đại Thắng. Đó là ngày 17/4 khi các anh vượt qua Phan Rang: Mười ngày đêm cơm vắt ngang lưng/ nước uống không kịp lọc/ giấc ngủ vo tròn không kịp buộc/ chốt quanh những cặp mắt thâm quầng...
Đó là ngày 22/4, đơn vị anh hành quân cơ giới. Đến một khu rừng cao su thì dừng lại. Đất khô cứng. Không thấy bóng người. Không có nước. Khát đến tưởng như cơ thể là một khúc cây khô: Mắt lờ đờ tôi nhìn giọt sương/ rơi giật cục theo nhịp đều tôi đếm/ bàn tay vội xòe ra để hứng/ lại thu về vẫn những nốt chai.../ Lưỡi tôi cố liếm mãi đôi môi/ nghe ram ráp như gỗ chà lên gỗ/ rừng cao su đứng yên trong lò lửa/ nhện chăng đầy bát nhựa khô nghiêng...
Đó là ngày 25/4, trung đoàn anh đang ém giữa rừng cao su thuộc tỉnh Bà Rịa thì 3 chiếc C130 đến đổ bom trúng đội hình. 153 chiến sĩ bị thương và hi sinh. Anh thương đồng đội: Đã vượt qua cả ngàn cây số đạn bom/ bạn nằm lại ở rừng cao su Bà Rịa/ Đành chịu lỗi với mẹ/ ngày mai chiến dịch cuối cùng sẽ mở/ chắc mẹ ở nhà dõi theo chờ/ máu chảy theo hình chữ S/ chảy về mỗi ngõ nhà...
Và đây là ngày 26/4 mở đầu chiến dịch Hồ Chí Minh. Tiểu đoàn của anh tham gia trận đánh hợp đồng quân binh chủng, mở cánh cửa phía đông Sài Gòn. Các anh bám theo đội hình xe tăng T54, vừa chạy vừa đối đầu với xe tăng địch. Đêm xuống, xe số 1 vừa vào đến Long Thành thì trúng đạn địch. Hai mươi người trên xe hi sinh, chỉ còn một người quê Quỳnh Lưu bị bỏng toàn thân. Trận ấy, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Ánh Dương cũng nằm lại: Sài Gòn cách mấy ngàn cây số máu/ đi mãi không cùng/ anh dừng lại ở Long Thành với lính/ sống có nhau giờ chết cũng còn nhau...
Có thể nói, đó là những câu thơ viết theo đội hình đánh giặc của nhà thơ áo lính; là những ghi chép chân thực, những cảm xúc chân thành, đẹp giản dị không cần trang điểm. Phải là người trong cuộc, can dự, sống chết hết mình với trách nhiệm và nghĩa vụ của người chiến sĩ mới chắt lọc nên những câu chữ như thế. Đọc thơ Vương Cường, hiểu thêm phẩm chất của một thế hệ tài hoa ra trận, cảm nhận sâu sắc hơn cái giá của Hòa bình - Độc lập - Tự do mà dân tộc ta đã đổi biết bao xương máu để có được hôm nay.