Vốn FDI: Đã đến lúc chuyển từ “lượng” sang “chất”
[Infographic] FDI 3 tháng năm 2022 | |
Triển vọng thu hút FDI vẫn là một ẩn số | |
Miền Trung lạc quan với dòng vốn FDI |
Chất lượng dòng vốn FDI chưa như kỳ vọng
TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam cho biết, Việt Nam có mức độ duy trì tỷ lệ thu hút vốn FDI tương đối cao. Có thời gian dù vốn FDI của toàn cầu suy giảm nhưng tại Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định và còn có xu hướng tăng.
Đơn cử như trong hai năm vừa qua, đại dịch Covid-19 khiến dòng vốn đầu tư toàn cầu chậm lại, song vốn FDI chảy vào Việt Nam vẫn đạt con số tốt. Nay khi dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, kinh tế đang trên đà phục hồi thì dòng vốn FDI càng chảy mạnh. Theo đó, tính đến ngày 20/3/2022, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 8,91 tỷ USD; vốn FDI thực hiện ước tính đạt 4,42 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước, ghi nhận mức cao nhất trong 5 năm qua.
Thái Nguyên vừa trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mở rộng dự án thêm 920 triệu USD cho Công ty TNHH Samsung Electro-Mechanics Việt Nam |
Ông Bình đánh giá, tiềm năng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam rất sáng sủa trong thời gian tới nhờ vào một số yếu tố như: địa chính trị ổn định, môi trường kinh doanh ngày càng cải thiện, cơ sở hạ tầng nâng cấp, nguồn lao động trẻ, chi phí hấp dẫn so với một số quốc gia khác… Cơ hội càng lớn hơn trong bối cảnh nhà đầu tư toàn cầu đang tìm cách dịch chuyển cứ điểm sản xuất sang một quốc gia khác ngoài Trung Quốc, xây dựng chuỗi cung ứng toàn cầu cân bằng, ổn định, an toàn hơn.
Tuy vậy vẫn không thể phủ nhận chất lượng của dòng vốn FDI vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Đơn cử trong lĩnh vực công nghiệp, Bộ Công thương đánh giá, hiệu quả và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI ở mức thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, trong khi tỷ lệ vốn FDI trong công nghiệp ở mức cao nếu so với nhiều nước khác. Sự liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và FDI lỏng lẻo khiến sự lan tỏa về công nghệ, kiến thức, kỹ năng sản xuất từ khu vực FDI rất hạn chế, làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, dẫn đến tình trạng “một quốc gia, hai nền kinh tế”.
Bên cạnh đó theo PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh - chuyên gia tài chính, hiện tượng các doanh nghiệp nước ngoài mở rộng đầu tư nhưng vẫn báo lỗ còn đang tương đối lớn, đây là một điều cần xem xét thận trọng. Minh chứng là theo báo cáo kết quả tổng hợp, phân tích báo cáo tài chính năm 2020 của các doanh nghiệp FDI do Bộ Tài chính gửi Thủ tướng Chính phủ, trong tổng số 25.171 doanh nghiệp FDI đang đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam có tới 14.108 doanh nghiệp báo lỗ, cho thấy hiện tượng “chuyển giá” vẫn còn diễn biến phức tạp với nhiều hình thức khác nhau, trong đó phổ biến nhất là vay từ công ty mẹ. Do đó, chuyên gia cho rằng thiết kế chính sách một mặt là tạo điều kiện để thu hút đầu tư, tuy nhiên cũng cần có cơ chế kiểm soát để ngăn chặn các hiện tượng như “chuyển giá”, gây ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước.
Đã đến lúc lựa chọn nhà đầu tư
Trong giai đoạn nền kinh tế bắt đầu mở cửa, Việt Nam đặt mục tiêu thu hút FDI để phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, các địa phương vì vậy có thể chấp nhận một số dự án đầu tư chưa có chất lượng cao về công nghệ, vốn.
Tuy nhiên hiện nước ta đang cố gắng dịch chuyển ở mức độ cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy TS. Lê Duy Bình cho rằng, đã đến lúc phải đặt nhiều hơn nữa mục tiêu trong thu hút nguồn vốn FDI về vốn, công nghệ, phương thức sản xuất, đầu tư vào lĩnh vực tạo giá trị gia tăng cao hơn, năng suất cao hơn, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, năng suất lao động, giúp Việt Nam có vị thế vững chắc hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu, tăng cường kết nối với doanh nghiệp trong nước.
“Cần đẩy nhanh quá trình sàng lọc nhà đầu tư nước ngoài bởi lẽ nguồn lực về đất đai, về con người, về lao động có hạn, đã đến lúc phải sử dụng nguồn lực quý giá đó một cách hiệu quả, chỉ dành cho các doanh nghiệp đưa ra những đề xuất tốt nhất với nền kinh tế”, ông Bình nhấn mạnh.
Mới đây, Chính phủ cũng đã đồng ý với kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xây dựng tiêu chí thu hút doanh nghiệp FDI, cũng như giao cho các bộ liên quan, các tỉnh thành nghiên cứu xây dựng quy trình và thể chế hóa các tiêu chí. Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng bảy tiêu chí để chọn lọc đầu tư FDI thời gian tới đó là: suất vốn đầu tư/ha đất; số lao động tại mỗi dự án đầu tư; hàm lượng công nghệ cao của dự án; cam kết chuyển giao công nghệ của nhà đầu tư; khả năng liên kết với khu vực doanh nghiệp trong nước; bảo vệ môi trường; đảm bảo quốc phòng an ninh.
Các chuyên gia cho rằng đây là những tiêu chí hoàn toàn hợp lý, cụ thể để sàng lọc nhà đầu tư. Bộ tiêu chí này sẽ không mang tính chất “rào cản”, không tạo ra điều kiện đầu tư, kinh doanh mà chỉ mang tính chất sàng lọc, không có nghĩa là tất cả các doanh nghiệp FDI phải đáp ứng các tiêu chí này thì mới được cấp phép vào Việt Nam. Đơn cử như nếu các doanh nghiệp FDI mong muốn đầu tư vào một khu công nghiệp hay một ngành nhất định thì dựa trên bộ tiêu chí trên, sẽ lựa chọn doanh nghiệp nào đưa ra dự án đầu tư đáp ứng một cách tốt nhất. Theo một chuyên gia, tiêu chí sẽ tính tới đặc điểm của từng địa phương, từng vùng như có vùng đề cao yếu tố bảo vệ môi trường, có vùng đề cao hơn tiêu chí cam kết chuyển giao công nghệ…
Cũng cho rằng việc đưa ra các tiêu chí là rất tốt, nhưng PGS-TS. Ngô Trí Long - chuyên gia tài chính nhấn mạnh, quan trọng là sự giám sát, thực thi tốt, phải đặt lợi ích lâu dài của nền kinh tế lên hàng đầu. Thực tế cũng đã có nhiều cơ chế, chính sách về lựa chọn nguồn vốn FDI được đưa ra nhưng quá trình thực thi vẫn còn nhiều hạn chế.
“Bất kể một tiêu chí nào đưa ra đều làm cho việc thu hút đầu tư nước ngoài có thể khó khăn hơn nhưng là một đòi hỏi bắt buộc, sống còn của nền kinh tế. Đã đến lúc không thu hút vốn FDI bằng mọi giá mà phải tăng cường về “chất” để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, tăng trưởng xanh theo đúng mục tiêu mà chúng ta đã đề ra”, PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh cho biết.