Chảy đi sông ơi!
Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km về phía Tây, làng Cự Đà không chỉ giữ được 51 căn nhà xây dựng theo kiểu nhà cổ vùng Đồng bằng Bắc bộ cách đây khoảng 200 năm; mà còn có 2 căn được thiết kế theo kiểu biệt thự Pháp, và 20 căn thiết kế theo lối kiến trúc phương Đông được xây dựng cách đây cả trăm năm. Cùng với những mái nhà xưa cũ, cây cổ thụ, mái đình, chùa, cổng làng cổ khiến du khách có cảm giác như được đi ngược thời gian cả thế kỷ.
Sông Nhuệ đoạn chảy qua làng Cự Đà |
Nhờ vị trí thuận lợi giao thương dễ dàng đã mang đến cho ngôi làng sự thịnh vượng, giàu có một thuở vàng son trong quá khứ chưa xa. Quy hoạch tự nhiên của làng theo đúng mô hình “nhất cận thị, nhị cận giang” điển hình cho một làng Việt cổ vừa nông nghiệp vừa thương mại.
Thời kỳ phát triển nhất của làng là những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, làng được ví von với cái tên hào nhoáng - “Làng Doanh nhân”, đồng thời, thu hút nhiều khách thập phương. Để đảm bảo an ninh, trật tự, các nhà đều xây cổng, mỗi xóm lại có cổng riêng, đường đi được lát gạch nghiêng, cổng xóm ban đêm được đóng kín bằng cửa gỗ. Đặc biệt hơn, nơi đây còn là làng cổ đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam được đánh số nhà, có biển ghi tên ngõ, xóm như ở phố. Đó là những điều hiếm có ở các làng xã Bắc bộ và cả Việt Nam.
Không chỉ được khám phá những nét cổ kính của ngôi làng, tới thăm Cự Đà vào ngày nắng, du khách sẽ có cảm giác như đang lạc vào mê cung sắc vàng: Màu nắng rót xiên kẽ lá lên đường làng, ngõ xóm, vàng trong sân chùa, vàng dọc lối đi... và cả màu vàng óng lấp lánh trên những sợi miến dong. Miến Cự Đà rất được ưa chuộng bởi sợi vàng, ngon và dai.
Cùng với miến, Cự Đà còn có nghề làm tương truyền thống có tiếng thơm ngon đã đi vào ca dao như một thương hiệu: “Tương Cự Đà - cà làng Đám”. Một ngày ở làng cổ Cự Đà để lại cho du khách bao ấn tượng, không chỉ bởi nét cổ kính rêu phong mà cả vẻ đẹp trong lao động sản xuất, sự hiếu khách của người dân nơi đây. Thế nhưng, Cự Đà chưa thể phát triển du lịch, bởi mùi hôi hám, khó chịu bốc lên từ dòng Nhuệ Giang tỏa khắp làng.
Trong ký ức của nhiều người dân Cự Đà, nước Nhuệ Giang vừa trong, vừa mát. Thậm chí vào mùa khô, ở những chỗ nông có thể nhìn thấu đáy. Đôi bờ sông vó bè san sát, thuyền chài ngược xuôi tấp nập. Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sông Nhuệ được ví như "con đường tơ lụa" và làng Cự Đà là "bến cảng" trung chuyển, tập kết hàng hóa từ Tây Bắc xuống, hoặc phía Nam lên.
Dân làng Cự Đà dựng hai cột trên đó có con cóc đá để thuyền bè biết lối cập bến. Hàng hóa từ đây được chở bằng xuồng máy ra Cầu Trắng, Hà Đông chuyển về trung tâm Hà Nội. Con sông là phương tiện giúp con người giàu có.
Vậy mà, từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ trước, con sông ngày càng ô nhiễm nặng và là tác nhân gieo rắc bệnh tật cho nhiều người dân. Theo kết quả của cuộc phân tích mẫu nước giếng khoan những nhà sống hai bên sông cho thấy, nước bị nhiễm asen cao; các loại bệnh như ngứa, ung thư phát sinh.
Nguyên nhân ô nhiễm được xác định là do sông Nhuệ phải gánh chịu mọi uế chất ở thượng nguồn gồm: Nước thải của các nhà máy, làng nghề chưa qua xử lý ở Hà Đông và các địa phương khác đổ về. Bên cạnh đó, còn do rác thải dân sinh và chất thải chăn nuôi do nhân dân trong xã đổ ra sông một cách bừa bãi. Nhìn những cảnh tiêu điều của dòng sông thơ mộng một thời, nhiều người than vãn, sông Nhuệ giống như sông "Tô Lịch 2", đang hấp hối. Còn khúc chảy qua xã Cự Khê thì đã chết thật rồi.
Tháng 3/2016, UBND TP.Hà Nội có Công văn số 1527/UBND-KT, đề nghị bộ, ngành liên quan thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn dự án Nạo vét trục chính sông Nhuệ từ Liên Mạc đến đường Vành đai 4, TP. Hà Nội, với tổng mức đầu tư dự kiến là 629,67 tỷ đồng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có công văn thông báo danh mục dự án quan trọng, cấp bách sử dụng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020, theo đó dự án Nạo vét trục chính sông Nhuệ từ Liên Mạc đến đường Vành đai 4, TP. Hà Nội dự kiến nguồn vốn ngân sách Trung ương bố trí trong kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 là 600 tỷ đồng; ngân sách TP. Hà Nội sẽ đảm bảo nguồn vốn còn lại để hoàn thành dự án.
Mừng vì điều đó, nhưng đến nay, người Cự Khê vẫn khắc khoải bên dòng Nhuệ Giang, mong ngóng dự án sớm thực hiện và hoàn thành từng ngày. Trở lại đi sông ơi! Đó là niềm hy vọng duy nhất để du lịch Cự Đà bứt phá và người dân Cự Khê có thể tiếp tục bấu víu, bám trụ lại nơi này.