Cơ chế truyền dẫn CSTT tại Anh: Quyền lực của lãi suất chính thức
Nói một cách khác, trong dài hạn, CSTT sẽ xác định giá trị của đồng tiền - sự thay đổi mức giá chung sẽ chỉ ra sức mua của đồng tiền thay đổi như thế nào theo thời gian. Lạm phát lúc này sẽ là một hiện tượng tiền tệ. Tuy nhiên, sự thay đổi CSTT cũng có tác động nhất định lên các hoạt động kinh tế thực trong ngắn và trung hạn.
Ngân hàng Trung ương (NHTW) Anh sử dụng quyền lực của mình để quyết định một mức lãi suất cụ thể trên thị trường liên ngân hàng dựa trên thực tế nó là cơ quan độc quyền cung cấp tiền cơ bản M0. Hoạt động của NHTW Anh cũng tương tự như nhiều NHTW trên thế giới, chỉ có hoạt động chi tiết của từng TCTD là khác biệt giữa các quốc gia. Điểm mấu chốt là việc NHTW Anh lựa chọn mức giá sẽ cho khu vực TCTD tư nhân vay. Tại Anh, NHTW cho vay chủ yếu thông qua việc bán vàng hoặc thông qua các hợp đồng mua lại - repo với kỳ hạn 2 tuần.
“Quyền lực” của lãi suất chính thức
Khi lãi suất chính thức thay đổi sẽ tác động đến các lãi suất thị trường như lãi suất cho vay thế chấp, lãi suất tiền gửi ngân hàng… ở mức độ khác nhau. Việc thay đổi lãi suất cũng tác động đồng thời đến kỳ vọng về nền kinh tế trong tương lai, cũng như ảnh hưởng tới giá tài sản và tỷ giá.
Thay đổi lãi suất chính thức ngay lập tức tác động lên lãi suất ngắn hạn đồng Bảng Anh, thông qua các công cụ thị trường tiền tệ với các kỳ hạn khác nhau, như lãi suất các hợp đồng repo với kỳ hạn nhiều hơn 2 tuần và tác động cả lên các loại lãi suất ngắn hạn khác như lãi suất tiền gửi liên ngân hàng.
Tuy nhiên, các lãi suất ngắn hạn này không thay đổi cùng một lượng với sự thay đổi lãi suất chính thức. Ngay sau khi lãi suất chính thức thay đổi, các ngân hàng sẽ thay đổi lãi suất cho vay chuẩn vào cùng một ngày và thường với một lượng đúng bằng với sự thay đổi lãi suất chính sách.
Điều này nhanh chóng tác động đến lãi suất mà các ngân hàng áp dụng với các khách hàng của mình cho các khoản vay với lãi suất linh hoạt, bao gồm cả thấu chi. Lãi suất cho các khoản thế chấp linh hoạt cũng có thể thay đổi một cách không tự động và có thể chậm hơn. Lãi suất tiết kiệm cũng thay đổi, nhằm duy trì margin giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay.
Margin này có thể thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào sự thay đổi các điều kiện cạnh tranh khi tham gia vào thị trường, nhưng không tự thay đổi một mình để phù hợp với các thay đổi chính sách.
Lãi suất dài hạn chịu tác động bởi lãi suất ngắn hạn trung bình trong hiện tại và kỳ vọng trong tương lai. Vì vậy ảnh hưởng đến lãi suất dài hạn phụ thuộc vào xu hướng và phạm vi ảnh hưởng của các thay đổi về lãi suất chính thức lên kỳ vọng về biến động lãi suất trong tương lai.
Ví dụ, tăng lãi suất chính thức sẽ tạo ra kỳ vọng về việc giảm lãi suất trong tương lai do lãi suất dài hạn có thể giảm để phù hợp với việc tăng lãi suất chính thức. Ngoài ra, mức độ ảnh hưởng thực tế của việc thay đổi lãi suất chính thức lên lãi suất dài hạn phụ thuộc một phần vào ảnh hưởng của thay đổi chính sách đối với kỳ vọng về lạm phát.
Tác động đến tỷ giá
Khi lãi suất chính thức thay đổi, tác động lên tỷ giá phụ thuộc vào kỳ vọng về lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ, lạm phát... Tuy nhiên, nếu các yếu tố khác cân bằng, việc lãi suất chính thức tăng đột ngột sẽ có thể dẫn tới tăng giá đồng nội tệ so với ngoại tệ ngay lập tức và ngược lại nếu lãi suất chính thức giảm.
Đồng thời, sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá và dịch vụ của hàng hóa trong và ngoài nước, có thể mất vài tháng và cũng có khi lâu hơn để tác động đến xu hướng chi tiêu. Cụ thể, các biến động về tỷ giá sẽ có tác động trực tiếp lên giá cả của các mặt hàng và dịch vụ nhập khẩu và tác động gián tiếp lên giá hàng hóa và dịch vụ, qua đó ảnh hưởng lên tỷ lệ lạm phát nói chung (nhập khẩu lạm phát).
Như vậy, rõ ràng lãi suất thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư của các cá nhân và DN. Ví dụ, khi các yếu tố khác cân bằng, lãi suất tăng sẽ khuyến khích tiết kiệm hơn là tiêu dùng, giá trị của đồng Bảng sẽ cao hơn trên thị trường ngoại hối, điều này khiến hàng hóa nước ngoài kém đắt đỏ hơn so với hàng hóa trong nước.
Từ đó, ảnh hưởng đến tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ trong nước. Thay đổi về cầu hàng hóa trong tương quan với tổng cung trong nước trên thị trường lao động và các thị trường khác, có ảnh hưởng quan trọng tạo áp lực lên lạm phát. Chẳng hạn, nếu cầu lao động vượt cung hiện tại, sẽ có nhiều áp lực hơn trong việc làm tăng chi phí lao động, khiến các DN phải tăng giá hàng hóa cung cấp tới người tiêu dùng.
Ngoài ra, thay đổi lãi suất chính thức cũng tác động tới giá trị thị trường của các loại chứng khoán, như trái phiếu và chứng khoán vốn. Giá trái phiếu có mối liên hệ ngược chiều với mức lãi suất dài hạn: lãi suất dài hạn tăng sẽ làm giảm giá trái phiếu và ngược lại.
Nếu những yếu tố khác không đổi (đặc biệt là kỳ vọng lạm phát), lãi suất tăng sẽ làm giảm giá chứng khoán, như chứng khoán vốn do kỳ vọng về thu nhập tương lai bị giảm bởi nhân tố lớn hơn, vì thế mà giá trị hiện tại của bất kỳ thu nhập tương lai thu được cũng giảm…
Về mặt thời gian, trong mô hình kinh tế vĩ mô của NHTW, quyết định về lãi suất chính thức sẽ tác động đến sản lượng với độ trễ gần một năm và tác động lên lạm phát với độ trễ gần hai năm. Về quy mô, phụ thuộc vào từng hoàn cảnh, mô hình tương tự cũng gợi ý rằng việc tăng lãi suất tạm thời tương quan 1 điểm phần trăm cho 1 năm có thể được kỳ vọng là sẽ làm giảm sản lượng từ 0,2 - 0,35% sau khoảng 1 năm và giảm lạm phát khoảng 0,2 - 0,4% sau khoảng 1 năm hoặc hơn nữa.
DN vào vòng xoáy thay đổi
Việc tăng lãi suất chính thức cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả các DN dựa vào tín dụng ngân hàng hoặc vào các khoản vay liên quan tới lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Cụ thể, lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí vay và ngược lại. Chi phí trả lãi làm giảm lợi nhuận của DN và tăng chi phí đầu vào khi quyết định đầu tư vào các dự án mới. Chi phí trả lãi cũng ảnh hưởng tới chi phí lưu kho, thường được chi trả dựa trên các khoản tín dụng. Chi phí trả lãi tăng cao cũng khiến DN cắt giảm nhân công, do đó ảnh hưởng tới thị trường lao động và ngược lại.
Do tín dụng ngân hàng dành cho DN (đặc biệt là các DN nhỏ) thường đi kèm với tài sản đảm bảo. Khi giá trị tài sản giảm khiến tín dụng gặp khó khăn vì giá trị tài sản thấp làm giảm giá trị ròng của DN.
Nhưng tất nhiên, không phải tất cả DN đều bị tác động bởi việc tăng lãi suất. Các DN có nguồn tiền mặt dồi dào có thể thu được lợi nhuận cao hơn nhờ vào khoản tiền gửi tại các ngân hàng hoặc trên thị trường tiền tệ, từ đó tăng dòng tiền của họ.
Truyền dẫn từ tăng lãi suất chính thức, tỷ giá thay đổi cũng ảnh hưởng tới DN trên khía cạnh đánh giá lại tài sản định giá bằng ngoại tệ. Ví dụ đối với DN sản xuất có trụ sở tại Anh hạch toán chi phí trên cơ sở đồng Bảng sẽ gặp bất lợi về cạnh tranh so với các DN nước ngoài hạch toán chi phí dựa trên đồng ngoại tệ khác trong trường hợp giá trị đồng Bảng tăng khiến cho biên lợi nhuận giảm và doanh số giảm.
Với hoạt động đầu tư, tác động của thay đổi lãi suất chính thức lên kỳ vọng và niềm tin của DN rất khó đánh giá, nhưng có lo ngại là thay đổi lãi suất chính thức sẽ ảnh hưởng tới đầu tư vì lãi suất chính thức tăng làm giảm mức cầu kỳ vọng và do đó DN sẽ cắt giảm vốn đầu tư vào các dự án trong tương lai.