Diễn biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu sau khi có Nghị quyết 42
Một năm thực hiện Nghị quyết 42: Nhận diện những thách thức | |
Nghị quyết 42: Tiền đề cho xử lý nợ xấu và tái cơ cấu ngân hàng |
Nghị quyết 42 đã giúp mọi người hiểu rõ đâu là nguyên nhân phát sinh nợ xấu và từ đó làm thay đổi nhận thức, ý thức của cả khách nợ lẫn chủ nợ.
Quyết liệt xử lý nợ xấu, khơi thông vốn cho nền kinh tế |
Nhiều vướng mắc trong xử lý nợ xấu trước khi có Nghị quyết 42
Trước đây, công tác xử lý nợ xấu gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc đề thu giữ, xử lý tài sản đảm bảo là dự án bất động sản, chi phí thi hành án, các loại thuế trong xử lý tài sản đảm bảo... Thời gian xử lý nợ kéo dài, đôi khi ra tòa tới 3-5 năm vẫn chưa xử lý được, gây tốn kém không chỉ cho các ngân hàng thương mại mà cả Nhà nước bởi nhiều chi phí phát sinh. Từ đó kéo theo những hệ lụy như ngân hàng khó giảm được lãi suất, nguồn vốn ra nền kinh tế cũng bị ách tắc.
Đến năm 2013, VAMC được ra đời, giữ vai trò trung tâm trong hoạt động xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu hệ thống các TCTD, là tổ chức do Chính phủ quản lý có cơ chế đặc thù để đảm bảo xử lý nhanh và hiệu quả nợ xấu trong khuôn khổ các quy định pháp luật liên quan.
Tuy nhiên, vẫn còn không ít những nghịch cảnh từ hậu trường xử lý nợ xấu khi ngân hàng “đứng cho vay quỳ đòi nợ”, có liên quan nhiều đến vấn đề pháp lý trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm.
Đây cũng là vướng mắc lớn nhất làm kéo dài thời gian xử lý nợ, giảm giá trị thu hồi nợ từ xử lý tài sản bảo đảm là việc bên bảo đảm không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý như đã cam kết trong hợp đồng bảo đảm.
Khi đó VAMC cũng như các TCTD không thể chủ động thu giữ nếu các chủ tài sản không đồng thuận, cố tình chống đối, thậm chí tạo ra các tranh chấp khác liên quan đến tài sản bảo đảm để khởi kiện ra tòa nhằm kéo dài thời gian xử lý. VAMC hoặc TCTD sẽ phải chờ bản án của tòa án, tạo tâm lý chây ỳ trả nợ của bên có nghĩa vụ, tạo áp lực lên cho các cơ quan xét xử. Ngày đó, đã có rất nhiều ý kiến cho rằng cần thiết phải xây dựng một bộ luật riêng, tạo khuôn khổ rõ ràng, chuyên biệt và đủ mạnh để thúc đẩy xử lý nợ xấu.
Cho đến kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (có hiệu lực từ 15/8/2017) đã được tạo hành lang pháp lý thông thoáng, kỳ vọng xử lý dứt điểm “cục máu đông” nợ xấu.
Nghị quyết 42 đã được đánh giá như chiếc chìa khóa tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của TCTD, thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, đảm bảo sự an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Các chuyên gia, đại biểu Quốc hội đã đánh giá cao sự cần thiết của Nghị quyết 42 đối với mục tiêu giảm lãi suất của Thủ tướng Chính phủ nói chung và tháo gỡ phần nào khó khăn trong việc xử lý nợ cho các ngân hàng nói riêng, từ đó giúp khơi thông dòng vốn ra nền kinh tế. Thậm chí có ý kiến còn cho rằng, xét cả quá trình nói trên, cũng như giá trị và tính lịch sử của tầm hỗ trợ chính sách, Nghị quyết 42 là thành công lớn nhất của ngành Ngân hàng những năm gần đây - giai đoạn tập trung xử lý nợ xấu.
Tháo gỡ dần những vướng mắc trong xử lý nợ xấu
Theo ông Nguyễn Tiến Đông – Chủ tịch HĐTV VAMC, cái mới trước tiên ở Nghị quyết 42 là thay đổi tư duy về nợ xấu. Trước đây, suy nghĩ nợ xấu là của ngành Ngân hàng, nợ xấu từng gắn với một tư duy như mặc định: "nợ xấu ngân hàng", nợ xấu của ngân hàng, do ngân hàng và tự ngân hàng phải trả giá, phải tự chịu trách nhiệm và tự mà xử lý.
Tuy nhiên, với Nghị quyết 42, tư duy của nhà lập pháp đã thay đổi khi cho rằng, nợ xấu là của nền kinh tế. Từ nhận thức nợ xấu là của nền kinh tế, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành địa phương các cấp đã vào cuộc quyết liệt, hỗ trợ ngành Ngân hàng xử lý nợ xấu.
Từ đó, khi Nghị quyết 42 ban hành và có hiệu lực, điều đầu tiên là đã tạo động lực quan trọng cho VAMC và các TCTD chủ động trong xử lý nợ xấu, khẳng định được quyền của chủ nợ trong giao dịch dân sự vay trả.
Ông Nguyễn Tiến Đông khẳng định, từ khi có Nghị quyết 42, những vướng mắc trong xử lý nợ xấu với ngành Ngân hàng nói chung được tháo gỡ nhiều. Đầu tiên là vướng mắc về trách nhiệm pháp lý của người cho vay. Lâu nay, khi quan hệ dân sự vay trả tới thu hồi không đủ nợ gốc và cả lãi thì dễ phát sinh chuyển thành quan hệ hình sự. Nghị quyết 42 cho phép bán dưới giá trị và cũng tạo động lực lớn cho các ngân hàng cũng như VAMC tự tin trong xử lý.
Bên cạnh đó, ý thức trả nợ của khách hàng cũng tốt lên rất nhiều. Các chuyên gia đều đồng tình bên cạnh ý nghĩa về pháp lý, Nghị quyết 42 còn có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao ý thức tuân thủ từ phía khách hàng vay vốn. Trước đây, do cách thức xử lý tài sản đảm bảo rất khó khăn, kéo dài nên khách hàng có tâm lý chây ì… Nay với quy cách xử lý rút gọn, dứt điểm này, khách hàng vay vốn sẽ có ý thức hơn trong việc hợp tác xử lý nợ, rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí cho cả hai bên cũng như cho cả hoạt động của nền kinh tế nói chung.
Chủ tịch VAMC cho hay, trước đây, cứ 10 khách hàng thì chỉ được 1-2 khách thiện chí làm việc với TCTD hay VAMC. Tuy nhiên, sau khi có Nghị quyết 42, có một số hành lang pháp lý cho phép VAMC được làm, các TCTD được phép làm, như tiến hành thu giữ tài sản khi khách hàng vi phạm cam kết, khi đã được hỗ trợ trong phạm vi có thể của VAMC mà khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết thì VAMC tiến hành thu giữ tài sản. Điều này được địa phương, các ngành ủng hộ, vì vậy tạo ý thức tốt với khách hàng.
“Có khách hàng mới nhận giấy mời lên làm việc đã phải đem tiền đến trả. Nhiều trường hợp, chúng tôi chưa cần làm đến cùng các biện pháp theo các phương án, khách hàng đã tự giác và đã xử lý được nợ. Đây là điều rất tốt trong giai đoạn hiện tại và sau này. Tức là vay trả sòng phẳng hơn rất nhiều và thị trường hơn rất nhiều” , ông Nguyễn Tiến Đông dẫn chứng.
Quyết liệt triển khai và đạt những kết quả nhất định
Sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết 42, ngành Ngân hàng đã quyết liệt triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thực hiện các nội dung của Nghị quyết. NHNN đã tham mưu cho Thủ tướng ban hành Chỉ thị 32/CT-TTg ngày 19/7/2017, giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành triển khai thực hiện Nghị quyết 42 trong đơn vị của mình với lộ trình thực hiện cụ thể bảo đảm tính khả thi, kịp thời.
Một ngày sau đó, Thống đốc NHNN ban hành Chỉ thị 06/CT-NHNN, quy định cụ thể các biện pháp, trách nhiệm mà NHNN và các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC cần thực hiện để bảo đảm thực hiện hiệu quả Nghị quyết 42 và Đề án 1058 (Quyết định 1058 của Thủ tướng phê duyệt Đề án tái cơ cấu hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020).
Để từng bước hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ xử lý nợ xấu, NHNN đã ban hành Thông tư 09/2017/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư 19 năm 2013 về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC cho phù hợp với Nghị quyết 42.
Ngoài ra, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tích cực triển khai thực hiện và quán triệt Nghị quyết 42 trong toàn hệ thống. Căn cứ thực trạng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42, đánh giá khả năng thu hồi nợ xấu, các ngân hàng đã xây dựng kế hoạch xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 phù hợp từng thời kỳ. NHNN cũng tăng cường chỉ đạo VAMC triển khai các giải pháp về mua nợ xấu theo giá thị trường và nâng cao năng lực tài chính cho VAMC...
Kết quả, từ ngày 15/8/2017 khi Nghị quyết 42 có hiệu lực đến nay, hiệu quả xử lý nợ xấu đã tăng gấp rưỡi so với các thời kỳ trước. Đặc biệt, Nghị quyết 42 có hiệu lực chỉ hơn 1 quý trong năm 2017 nhưng kết quả thu hồi nợ xấu về mặt thực chất của 2017 đã tăng hơn rất nhiều so với năm 2016 và những năm trước đây.
“Sau Nghị quyết 42, năm 2017, VAMC cùng với các TCTD đã thu hồi nợ xấu được khoảng 37 ngàn tỷ đồng, gần bằng một nửa so với 3 năm trở lại đây”, ông Nguyễn Tiến Đông thông tin thêm.
Đánh giá về công tác xử lý nợ xấu, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, có 3 “cái được” đối với các ngân hàng, đặc biệt ngân hàng thương mại: Thứ nhất là sự vào cuộc của các cơ quan chức năng chủ động hơn, quan tâm hơn nhiệt tình hơn; Thứ 2 là ý thức xử lý nợ xấu của bên đi vay tăng lên; Thứ 3 là xử lý tài sản đảm bảo cũng đã được đẩy nhanh hơn đáng kể khi các TCTD thời gian vừa qua phân loại tài sản đảm bảo khá nhiều.