Giải pháp tình thế không giúp thoát thế bí
Bất chấp kinh tế phục hồi, giá nông sản đang lao dốc và người trồng chịu thiệt. Xuất khẩu không được giá với đa số nông sản chủ lực của Việt Nam như cà phê, cao su… Ở huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, người dân vừa chặt bỏ 6 ha cây cao su đang lúc cho năng suất nhất, lý do càng làm càng lỗ. Nhiều khu vườn cà phê không còn được chăm chút vì hiệu quả kém...
Bất chấp kinh tế phục hồi, giá nông sản đang lao dốc và người trồng chịu thiệt |
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 4 tháng đầu năm 2015 đạt 9,13 tỷ USD, giảm 6% so với cùng kỳ năm 2014.
Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 4,47 tỷ USD, giảm 6%. Mức giảm mạnh ở các mặt hàng như gạo (9,2%) và cà phê (39,3%)... Vấn đề đặt ra với Việt Nam là vì sao các đàm phán tự do hóa thương mại ngày càng mở rộng, nhưng tiêu thụ nông sản vẫn khó khăn đến thế?
Theo TS. Nguyễn Hữu Đạt, Giám đốc Trung tâm Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu, ngay sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có bước chuẩn bị để hàng hóa nông sản Việt Nam đủ tiềm lực, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.
Đến nay, đã có gần 10 mặt hàng trái cây Việt Nam xuất khẩu bền vững đến những thị trường lớn, đặc biệt khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, New Zealand… Và từ lô hàng trái cây đầu tiên vào Mỹ đến nay đã gần 8 năm, chưa có trường hợp hàng trái cây xuất khẩu bị trả lại do không đạt yêu cầu…
Nói như vậy để thấy, nếu hàng nông sản của người nông dân Việt Nam được quan tâm đúng mức, quy hoạch vùng trồng trọt chuyên canh, có thông tin sâu sát thị trường tiêu thụ và không chịu phụ thuộc quá mức vào một thị trường “ăn hàng” thời vụ nào, thì sẽ giảm được tổn thất lớn cho người nông dân.
Cũng theo ông Đạt, nhà nông Việt Nam hiện còn rất khó khăn ở mấy vấn đề.
Thứ nhất là phát triển nhỏ lẻ và tự phát, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có quy hoạch các ngành hàng nông nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, với từng chủng loại cây cụ thể (thanh long, cà phê, cao su, cây ăn trái…) ở những địa phương có thế mạnh, với diện tích được quy hoạch cụ thể.
Tuy nhiên, hiện nay, tại nhiều địa phương nhà nông sản xuất chủ yếu theo nhu cầu thị trường, thấy loại nào bán được giá là tăng diện tích trồng một cách tự phát, kể cả đốn cây cũ, tự chuyển đổi cây khác nên không tránh khỏi nhiều mặt hàng nông sản vào mùa vụ thì cung vượt cầu. Nếu một thị trường xuất khẩu nào đó ngưng nhập hàng, ngay lập tức nhà nông phải chịu cảnh hàng tồn đến mức phải đổ bỏ. Câu chuyện của dưa hấu, hành tím vừa qua là ví dụ.
Thứ hai là thông tin thị trường tiêu thụ của Việt Nam còn yếu, chưa cập nhật đủ để người nông dân chủ động điều tiết sản xuất. Nếu có sự tiên lượng mức tiêu thụ tại thị trường nội địa và số lượng nhập khẩu của những thị trường gần như Trung Quốc, các nước trong khối ASEAN vào những vụ sản xuất chính, sẽ giảm tổn thất rất lớn cho nhà nông.
Điều này lý giải vì sao những năm gần đây, lúc thì cà chua Đà Lạt, thanh long Bình Thuận, dưa hấu đến nay là hành tím… bị tồn đọng, một phần quan trọng do thiếu thông tin thị trường.
Diện tích đất sản xuất nhỏ, lẻ, manh mún cũng là điểm yếu của nông nghiệp Việt Nam. Bởi nhà nông canh tác trên đất đai cha truyền con nối, có bao nhiêu trồng bấy nhiêu, nên nói đủ thì không đủ, nói thừa vẫn thừa.
Cụ thể, nếu phát triển sản xuất theo hướng hiện đại, giữ ổn định thị trường xuất khẩu đòi hỏi diện tích canh tác ít nhất phải lớn (từ 10ha trở lên), đủ để áp dụng khoa học kỹ thuật, phương thức canh tác hiện đại… thì mới cho sản phẩm tốt đạt chuẩn (Việt GAP, EuRO GAP).
Ông Đồng Văn Quảng, Phó tổng Giám đốc Vinacafe: Nông sản Việt yếu ở khâu thương mại Nông dân Việt Nam sản xuất rất giỏi, nhiều mùa màng cây trái bội thu, nhưng vấn đề nan giải, khó khăn hiện nay lại chính ở khâu đầu ra. Sản xuất ra đại trà, rộ mùa vụ không ai mua, nhiều nông sản bị đổ bỏ, ùn ứ ở cửa khẩu qua Trung Quốc... không chỉ khiến người nông dân gánh chịu thiệt hại mà cả nền nông nghiệp, kinh tế đất nước cũng ảnh hưởng theo. Vấn đề then chốt của câu chuyện muôn thuở đối với nông sản Việt “được mùa mất giá, được giá mất mùa” là từ trước đến nay, chúng ta vẫn làm ăn tự phát, thiếu quy hoạch, định hướng. Phần lớn người nông dân thấy dễ làm thì tự đầu tư công sức, tiền bạc ra canh tác mà không hề biết đến lúc thu hoạch sẽ bán đi đâu, ai là người mua? Chính vì vậy mới có những chuyện dưa hấu, hành tây bán rẻ như cho hoặc đổ đi, nhưng vừa thu hái xong, họ lại tiếp tục làm đất trồng vụ mới, vẫn những thứ cây trái đó, nhưng với niềm hy vọng ở mùa vụ sau may ra sẽ bán được giá hơn. Nhìn rộng ra, cả nền nông nghiệp Việt Nam từ trước đến nay vẫn đang trong tình cảnh sản xuất và đem bán những gì mình có, chứ không phải những gì thị trường cần nên giá trị đem về rất thấp. Đối với một số mặt hàng nông sản chính như lúa gạo, cà phê, cao su mặc dù có sự tổ chức quy củ hơn và nằm trong tầm kiểm soát. Nhưng khi đem bán trên thị trường quốc tế, dù chất lượng có thể ngang bằng, thậm chí hơn, nhưng giá cả vẫn thua kém do khâu làm thị trường, thương mại của ta còn yếu. Để giải quyết tình trạng này, ngoài vấn đề mang tính quy hoạch, định hướng, dự báo thị trường cần làm tốt, thì người nông dân cũng như DN xuất khẩu cần liên kết để tạo chuỗi mắt xích, phối hợp nhịp nhàng từ quy mô, chất lượng, đến tìm đầu ra cho sản phẩm nhằm nâng cao vị thế cho nông sản Việt Nam. |
Ông Nguyễn Công Thừa, Giám đốc Anh Dao Co.op: Cần những liên kết chuỗi Chuyện nông sản dư cung do sản xuất đại trà, thiếu quy hoạch không còn là mới trong lĩnh vực nông nghiệp. Giải quyết vấn đề này không khó nhưng cần có sự quyết tâm của chính những người sản xuất, DN bắt tay liên kết cũng như chủ trương, chính sách của Nhà nước. Trước tiên, người nông dân Việt Nam cần thay đổi tập quán tư duy từ sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự phát để bước vào một nền nông nghiệp quy mô, hiện đại và liên kết chặt chẽ hơn từ đầu vào đến đầu ra. Bên cạnh đó, thay đổi thói quen dễ dãi, bằng lòng trong sản xuất, chỉ đưa ra những sản phẩm “tầm tầm” cho các thị trường dễ tính, hoặc cảm thấy thuận lợi khi xuất tiểu ngạch sang Trung Quốc, nhưng khi thị trường này “quay lưng”, thậm chí tìm cách dìm giá, không có đầu ra mới loay hoay đi tìm thị trường mới… Tuy nhiên, không thể đổ lỗi hết cho họ, bởi kinh tế còn khó khăn nên hiện nay phần nhiều người nông dân vẫn thấy lợi trước mắt thì làm chứ chưa thể nghĩ đến thiệt hại lâu dài. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích trồng cây gì, con gì, hay ngược lại không nên tiếp tục phát triển, nhân rộng thêm diện tích trồng những cây, con mà cung đã quá dư thừa… Với tư cách là người điều tiết thị trường, nắm các công cụ trong tay, các cơ quan quản lý Nhà nước nên sử dụng một cách hiệu quả những “rào cản” phù hợp để phòng vệ thương mại trước những sản phẩm nông sản nước ngoài kém chất lượng ồ ạt thâm nhập vào Việt Nam, cũng như hạn chế bớt tình trạng thương lái Trung Quốc làm ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường. |
Ông Trần Ngọc Hiệp, Giám đốc Công ty TNHH Thanh long Hoàng Hậu (Bình Thuận): Phải có hướng sản xuất bền vững Từ kinh nghiệm của một DN bắt đầu bằng mô hình trang trại chỉ với 3 ha đất khai hoang trồng thanh long cho thấy, việc làm nông vốn rất gian khổ, nhưng để bán được nông sản còn gian khổ và chịu tốn kém hơn rất nhiều lần. Vì vậy, nhiều hộ sản xuất nông nghiệp không thể có sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu bền vững, mà phải phụ thuộc vào thương lái thu gom hàng tiêu thụ trong nước hay xuất theo đường tiểu ngạch. Mặt khác, để tiêu thụ hàng tốt còn phải có thương hiệu vững mạnh, trong khi nhà nông canh tác một hai sào đất, thì không thể đầu tư đến nơi đến chốn cho thương hiệu. Ví dụ nói củ hành tím Sóc Trăng nổi tiếng, nhưng chỉ người Việt Nam biết như vậy, chứ thị trường Trung Quốc mua hàng thô về, đóng gói, bán ở siêu thị của họ với thương hiệu khác. Nếu bán được, thì họ nhập tiếp, không bán được thì thôi. Nhưng nếu có thương hiệu, người bán buộc phải tìm đúng thương hiệu củ hành tím Sóc Trăng – Việt Nam thì người tiêu dùng mới chọn, sẽ khác hơn rất nhiều. Từ những yêu cầu này cho thấy, muốn phát triển bền vững những sản phẩm nông nghiệp thì đầu tiên phải hướng đến sản xuất bền vững. |