Giảm thiểu rủi ro, củng cố niềm tin
TTTTTD Quốc gia Việt Nam: Trọng tâm là quản trị rủi ro tín dụng | |
Hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng | |
Basel II: Không dễ nhưng quyết tâm làm được |
Chú trọng kiểm soát nội bộ
Vụ việc khách hàng đột ngột “bốc hơi” tiền gửi tiết kiệm thời gian vừa qua đang gióng lên hồi chuông đối với công tác kiểm soát rủi ro của các NH trong giao dịch tiền gửi. Nhìn rộng hơn, không chỉ với giao dịch tiền gửi, mọi hoạt động khác của nhà băng đều đòi hỏi quản trị rủi ro đúng quy trình, quy định, đặc biệt đề cao vấn đề kiểm soát nội bộ.
NH phân tích rủi ro và an toàn giao dịch phải được tiến hành đầy đủ trước khi đưa sản phẩm ra thị trường |
Thẳng thắn nhìn nhận, các chuyên gia cho rằng việc kiểm soát nội bộ của NH đã ngày càng được chú trọng hơn thời gian trước, song nếu nói ổn thì chưa thật sự. Trước giờ, việc kiểm soát rủi ro theo “lối mòn” truyền thống vẫn là rủi ro tín dụng, nên các NH thường chỉ quan tâm nhất là việc làm sao tránh được rủi ro về nợ xấu, mất vốn do nợ xấu. Hai loại rủi ro còn lại là rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động vẫn chưa được chú trọng nhiều. Ngay cả với rủi ro thị trường khi lãi suất trên thị trường lên - xuống thất thường, tác động tới NH ra sao dù cũng được quan tâm, nhưng còn hạn chế.
“Với rủi ro hoạt động, các NH mới chủ yếu có những quy định bảo toàn lượng tiền mặt, tài sản cho khách hàng… nhưng những vụ việc xảy ra vừa qua rõ ràng có lỗ hổng trong vấn đề quản lý tác nghiệp. Chỉ cần nhìn vào những rủi ro phát sinh số lượng ra sao, giá trị bị mất như thế nào thì chẳng cần phân tích sâu xa cũng có thể thấy được hiện trạng”, một chuyên gia chia sẻ. Do đó, quản trị rủi ro của các NH cần phải được nhận thức, phân định rạch ròi, cụ thể để thấy được rủi ro trong hoạt động có thể mang lại những hệ quả khó lường. Điều này đòi hỏi các NHTM phải quán triệt hệ thống quản lý rủi ro chặt chẽ, trong đó dành một phần tương đối cho rủi ro hoạt động. Song công bằng mà nói, trong những sự vụ vừa qua trách nhiệm thuộc về cả hai bên, chứ không hoàn toàn chỉ là phía NH.
Bà Nguyễn Nguyệt Anh, Giám đốc dự án về Quản trị công ty của IFC tại Việt Nam cho biết, một số nghiên cứu chỉ ra rằng khi các NH có giao dịch bên liên quan chiếm tỷ trọng cao thì biên lãi suất thường có lợi cho người đi vay (trong một số trường hợp nghiêm trọng, tỷ lệ này có thể lên đến 70% tổng giá trị) và rủi ro vỡ nợ của khoản vay đó cũng cao hơn so với các khoản vay cho bên không liên quan. Đơn cử như một nghiên cứu được thực hiện với các NH của Bangladesh sau khi cổ phần hoá có chỉ ra rằng, số lượng giao dịch bên liên quan tăng lên đồng nghĩa với quản trị DN kém hơn và gian lận trong các NH cũng tăng lên.
Khuyến nghị về điều này, bà Nguyệt Anh cho rằng: NHTM nên tiến hành phân tích khoảng cách giữa các thông lệ hiện hành của NH, các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam và các thông lệ tốt, từ đó xây dựng kế hoạch để cải thiện quản trị NH theo các thông lệ tốt.
“Các NH cần nhận ra rằng, các bên liên quan thường là các cổ đông lớn hiện đang nắm giữ hoặc có khả năng chi phối đến ít nhất 5% cổ phần của NH trực tiếp hoặc gián tiếp. Để minh bạch thông tin, các cổ đông lớn hiện nắm giữ ít nhất 5% cổ phần nên được yêu cầu cung cấp thông tin về bản thân họ và những bên có liên quan cho NH. Nhóm cổ đông có liên quan đang nắm giữ tối thiểu 5% cổ phần cũng được xếp vào nhóm các cổ đông lớn. Các thông lệ quốc tế tập trung vào nhóm người có khả năng kiểm soát hoặc ảnh hưởng đến việc ra quyết định của DN”, bà Nguyệt Anh nhấn mạnh.
Hiện đại… “hại điện”
Rủi ro tất nhiên không chỉ hoàn toàn từ quản trị nội bộ. Nhắc tới quản lý rủi ro trong NH trong thời buổi hiện nay, còn phải nhìn dưới giác độ của thời kỳ công nghệ số. Với sự ra đời của điện thoại thông minh và sự phát triển của các ứng dụng trên nền tảng này đã mang lại sự tiện dụng và thay đổi cách sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, vòng đời sản phẩm của các thiết bị ngày càng ngắn, cũng như công nghệ sử dụng trên các thiết bị liên tục thay đổi nhằm gia tăng trải nghiệm, đáp ứng yêu cầu thuận tiện, dễ dàng hơn với người sử dụng.
Ông Phạm Anh Tuấn, Uỷ viên HĐQT Vietcombank nhận thấy, sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu khách hàng cộng với phát triển không ngừng của công nghệ đã liên tục gia tăng sức ép cho NH. Buộc NH phải nhanh chóng đưa ra các sản phẩm mới trên thị trường để đáp ứng thị hiếu của khách hàng và tăng sức cạnh tranh. Điều này đồng nghĩa với áp lực quản lý ngày càng gia tăng, khi NH vẫn phải đảm bảo rằng việc phân tích rủi ro và an toàn giao dịch phải được tiến hành đầy đủ trước khi đưa sản phẩm ra thị trường.
Quản lý rủi ro với NH số là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Vụ trưởng Vụ Dự báo - Thống kê (NHNN) Nguyễn Đức Long có nhắc tới trường hợp của Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) khi đơn vị này đưa ra Hướng dẫn quản lý rủi ro công nghệ và NH điện tử sửa đổi (IBTRM) nhằm cung cấp các hướng dẫn xử lý các mối đe dọa và tấn công mạng, bao gồm các cuộc tấn công mạng phổ biến như cuộc tấn công MITM (Man-in-the-Middle, có thể hiểu nôm na rằng MITM giống như kẻ nghe trộm, hoạt động bằng cách thiết lập các kết nối đến máy tính nạn nhân và chuyển tiếp dữ liệu giữa chúng).
Theo đó, hướng dẫn đề xuất các yêu cầu quản lý rủi ro công nghệ nâng cao để tăng cường an ninh hệ thống dữ liệu và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, đồng thời đề cập chi tiết quy trình phát hiện hệ thống cũng như kiểm tra an toàn bảo mật. MAS quy định rõ trách nhiệm của HĐQT và Ban lãnh đạo NH trong việc quản lý và kiểm soát rủi ro công nghệ trong hoạt động kinh doanh của NH.
Trưởng Khối Công nghệ thông tin NH Woori Việt Nam ông Kim Jong Woo cũng nhìn nhận, “NH điện tử càng phát triển thì độ rủi ro xảy ra các sự cố càng cao. Các NH trước khi nghĩ tới phát triển công nghệ, thì phải làm sao thực hiện các yêu cầu bảo mật nghiêm ngặt với những công nghệ bảo mật đa dạng, để tăng tính ổn định và độ tin cậy trong các giao dịch NH trực tuyến của NH”.