“Hà Nội ơi hãy vang lên cùng ta...”
Khó có ai đã từng đi qua những năm 80 của thế kỷ trước lại quên được những giai điệu đắm say lòng người qua giọng hát ngọt ngào của NSND Thu Hiền: Ôi tiếng nói chúng ta/Làm xanh thêm ánh trăng trong đêm rằm/Thêm tin yêu bao bầu bạn xa gần/Ôi tiếng nói Việt Nam/Nghe say đắm xốn xang/Hà Nội ơi hãy vang lên cùng ta/Việt Nam Việt Nam nỗi vui mọi nhà…” (ca khúc Tiếng nói Việt Nam – NS. Dân Huyền).
Vâng khó ai quên được, những tháng năm chiếc đài bán dẫn (radio) trở nên thân thương gắn bó với tất cả những ai là người Việt Nam – là mối dây kết nối tình cảm toàn xã hội thành một khối tương thân tương ái.
Tôi ra Hà Nội định cư vào năm cuối thập niên 80, thấy nhiều gia đình vẫn còn phải nghe đài treo tường, thực chất đó là hệ thống loa truyền thanh của thành phố, có tiếp âm Đài tiếng nói Việt Nam và Đài phát thanh-truyền hình Hà Nội.
Ở Thủ đô mà còn thế, thì chuyện hồi đó cả làng tôi - một ngôi làng nghèo tận miền Trung “chang chang cồn cát” - chỉ có 3 cái đài, kể cũng chẳng có gì phải xấu hổ. “Hồi đó” là hồi chúng tôi phải đội mũ rơm đi học dưới đường hào giao thông, cách nay đã ngót nửa thế kỷ, nhưng tôi vẫn nhớ như in chuyện 3 chiếc đài của 3 nhà trong làng, được gọi là “đài ông Huê”, “đài ông Trân” và “đài cu Hoàn”.
Nếu còn sống đến nay, hẳn ông Huê phải hơn trăm tuổi. Bởi vì hồi tôi còn học cấp một, ông Huê đã râu tóc bạc trắng. Cho đến nay tôi chưa gặp cụ già nào đẹp lão như vậy. Nghe nói ông là người có chữ, thuộc hàng khấm khá trong làng. Thế rồi năm cải cách ruộng đất ông bị quy địa chủ, bị đấu tố. Mà người đấu tố cũng toàn là con cháu gần xa của ông.
Đến đận sửa sai, ông được hạ xuống thành phần trung nông, coi như được giải oan, nhưng của nả thì tứ tán chẳng còn gì. Ông bà lụi cụi gây dựng lại nhà cửa, chẳng oán trách ai một câu. Thỉnh thoảng đi làm thuê cho nhà ai được mời chén rượu, ông hăng hái tươi tỉnh lên, vuốt râu đọc: Trời mần một hội dung dăng/Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông... Chính tôi cũng đã được nghe ông đọc mấy lần hai câu thơ ấy...
Ông Huê làm thợ mộc, kiếm bữa nào xào bữa nấy, nhưng lại có một cái đài Philip oách nhất làng. Đó là quà của một người em ông ở Thái Lan gửi tặng. Đã bảo dòng dõi nhà ông danh giá mà! Chỉ vì trời mần một hội dung dăng...
Người thứ hai sở hữu cái đài “Xương Mao” hai pin của Trung Quốc, là anh cu Hoàn. Tục quê tôi, vợ chồng nhà nào đẻ con trai đầu lòng thì được gọi là “anh cu, chị cu” kèm theo tên chính thức. Vợ chồng nhà nào đẻ con gái đầu lòng thì gọi là “anh mẹt... chị mẹt...”. Anh cu Hoàn mới ngoài ba chục tuổi, làm nhân viên tài chính hay công việc gì đó ở Ủy ban hành chính xã, hàng ngày làm việc ở trụ sở, thỉnh thoảng nhà nào mổ lợn thì anh đến tận nơi thu thuế sát sinh.
Cái đài “Xương Mao” là của ông anh ruột cu Hoàn đi bộ đội, được cử sang Trung Quốc học sửa chữa máy bay, mua về tặng. Cái đài lúc nào cũng lủng lẳng bên hông anh cu Hoàn. Cho nên hễ nghe tiếng đài oang oang ở đâu là bà con biết ngay anh cu Hoàn đang ở đó để đến xin cái giấy phép làm thịt lợn.
Người thứ ba có đài là ông Trân, bà con xa với bà nội tôi, nên bố tôi kêu bằng cậu, tôi kêu bằng ông. Ông Trân là Việt kiều Thái Lan về nước những năm sáu mốt, sáu hai gì đó, mang về chiếc đài National ba pin. Khác với anh cu Hoàn, ông Trân không bao giờ mang theo cái đài bên mình mà đặt nghiêm ngắn trên bàn thờ rồi dùng một tấm vải điều phủ kín.
Tối nào bà con trong xóm cũng kéo đến nghe đài ông Trân chật kín cả gian nhà. Tất cả đều ngồi bệt dưới nền đất, ngước nhìn lên cái vật vuông vuông đỏ đỏ đang phát ra những bài hát rộn ràng, hoặc là những bản tin chiến thắng làm nức lòng bà con quê hương “Hai giỏi”...
Cái đài của ông Huê nghe nói tốt hơn đài của anh cu Hoàn và của ông Trân, vì là hiệu Philip đầu bảng hàng điện tử của Nhật Bổn. Dân làng tôi nghe thế thì biết thế, chứ làm sao phân biệt được hãng này với hãng nọ. Chỉ đến khi nghe đồn rằng cái đài của ông Trân dự báo thời tiết thường hay sai, còn đài ông Huê báo nắng mưa thế nào là y như rằng trúng phóc. Tin chiến thắng miền Nam của đài ông Huê cũng nhiều hơn, giết được nhiều quân địch hơn.
Thế là dân làng tôi tin chắc chắn đài ông Huê tốt nhất. Tiếng lành đồn xa, tối nào bà con xóm trên xóm dưới cũng kéo đến chật nhà ông Huê để nghe đài. Một bữa, bà con đang say sưa nghe “Kể chuyện cảnh giác” thì ông Huê từ trong buồng bước ra tắt ngóm cái đài, bảo là bà con thông cảm, mỗi tối nghe vài người thì được, chứ nghe nhiều người tốn pin lắm. Mà tui thì kiếm ăn từng bữa...
Thế là từ hôm đó, hàng xóm không ai dám sang nghe chực đài ông Huê nữa. Tôi cũng thế, nhưng hàng tối chủ nhật cứ bồn chồn mỗi khi sắp đến chương trình “Tiếng thơ”. Một hôm, tôi đánh liều chui qua hàng rào luồn vào đầu hồi nhà ông nghe đài. Đầu hồi nhà ông Huê có bụi cam sành đã cuối năm rồi mà còn sai lúc lỉu. Tôi ngồi dưới gốc cam nghe Châu Loan ngâm bài thơ “Mẹ Suốt” mê mẩn như nuốt từng lời.
Đến lúc nghe “soạt” một phát từ phía xưởng mộc, đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì ánh đèn pin trong tay ông Huê đã chiếu thẳng vào mặt tôi, kèm theo tiếng thằng Minh cháu nội ông Huê kêu như lợn bị bóp cổ: “Thằng Thắng! thằng Thá... ắng...”. Tiếng ông Huê đanh như dùi cui đánh đục: “A, Thắng, to gan ăn trộm cam hả?”. Không hiểu sao lúc đó tôi lại không bỏ chạy, tuy hơi run một chút nhưng vẫn tự tin cãi lại: “Không phải, con chỉ nghe trộm đài thôi!”.
Đúng là tình ngay lý gian! Sáng hôm sau thằng Minh đi rêu rao khắp xóm là tối hôm qua tôi mò vô ăn trộm cam, bị ông cháu nhà hắn bắt được. Mạ tôi nghe nói thế thì mắng chửi tôi cả ngày. Chiều, tôi đi học nhóm về đã thấy ông Huê ngồi ở bậc cửa. Tôi chột dạ, chuẩn bị cãi tiếp thì ông tươi cười nói với mạ tôi:
Ông sang nói lại với bây đừng la thằng Thắng. Đúng là cam nhà ông còn tám chục trái để dành chưa mất trái nào. Sáng nay ông đếm đi đếm lại từng trái rồi. Đúng là hắn chỉ nghe trộm tiếng thơ thôi. Cả làng ta chỉ hắn biết mần thơ. Cái bài “Tàu bay phản lực” của hắn ai cũng thuộc. Mấy chú Sẵn Sàng khen lắm!
“Mấy chú Sẵn Sàng” tức là mấy chú đơn vị Thanh niên xung phong người Khu Ba đóng quân ở làng tôi để hàng đêm đi lấp hố bom trong tuyến đường tàu. Ngày ấy dân làng tôi gọi Thanh niên xung phong là “Sẵn Sàng”.
Về sau tôi cũng biết chính mấy chú Sẵn Sàng bày đặt chuyện nhiều người cùng nghe đài thì tốn pin để trêu ông Huê, không ngờ ông tin là thật. Nhưng hôm đó thì tôi sung sướng lâng lâng khi nghe ông Huê nói mấy chú Sẵn Sàng khen bài thơ “Tàu bay phản lực” của tôi. Bài thơ ấy như sau:
Tàu bay phản lực
Mi chực đồng bào
Mi cào bộ đội
Mi sang Phú Hội
Rình thả bom đêm
Miểng văng vô thềm
Bể chum cu Hựu
Không may mẹt Dịu
Đá văng nhằm tay
Cu Xuân chẳng may
Đá văng nhằm cẳng
Đá văng vô đẳng
Bể chảo Sẵn Sàng
Chết con chó vàng
Nhà ông mẹt Phượng...
Ngót nửa thế kỷ rồi, bài thơ vần vè trẻ con thế mà tôi vẫn nhớ như in. Cũng như đã mấy chục năm ông Huê quy tiên, nhưng tôi vẫn nhớ như in gương mặt, chòm râu của ông và nhất là cái điệu bộ gật gù lắc lư mỗi khi ông đọc: Trời mần một hội dung dăng...
Bây giờ thì làng tôi nhất loạt chỉ nghe nhìn ti-vi và băng đĩa. Nhiều nhà sắm những 2-3 chiếc ti-vi, mua chảo lậu về lắp xem hết kênh này đến kênh khác. Tụi thanh niên thì chơi game và xem phim bằng điện thoại thông minh, tối đến thì tập trung hát ka-ra-ô-kê nghêu ngao ở cái quán cắt tóc gội đầu kiêm cháo lòng buổi sáng ở gần chợ.
Vậy mà tôi ra sinh sống ở Hà Nội mấy chục năm vẫn chưa hết nghiện nghe đài. Đêm nào tôi cũng phải nghe hết bản tin thời sự cuối cùng trong ngày mới ngủ được, sáng thì vừa tập thể dục vừa nghe bản tin thời sự lúc 6 giờ. Nhất là những đêm Ba mươi Tết, việc nghe đài với tôi như một nghi thức thiêng liêng trào dâng xúc động với biết bao kỷ niệm một thời, bao gương mặt người thân xa khuất ùa về... Và chắc chắn Tết Mậu Tuất này tôi cũng vẫn thế!