Hướng đi nào cho Logistics?
Năm 2014, sản lượng hàng hóa qua cảng Đà Nẵng khoảng 5,85 triệu tấn. Trong đó, sản lượng container đạt trên 205.000 TEUS, tăng 35% so với năm trước. Hiện có 12 hãng tàu container thường xuyên có tàu đến cảng Đà Nẵng, trung bình mỗi tuần cảng Đà Nẵng đón đến 15 chuyến tàu container đáp ứng phần lớn nhu cầu xuất, nhập hàng hóa của các DN trên địa bàn Đà Nẵng và các tỉnh trong khu vực.
Nhà nước cần có chính sách phù hợp để hỗ trợ DN logistics phát triển |
Có thể nói, khu vực miền Trung có nhiều ưu thế về vị trí địa lý, cảng biển, nhà ga, sân bay quốc tế và được đánh giá có nhiều tiềm năng về phát triển dịch vụ logistics.
Tuy nhiên, lĩnh vực logistics tại khu vực này vẫn phát triển chậm và với quy mô nhỏ. Các DN chỉ dừng lại ở một công đoạn ngắn trong chuỗi, thường là các đại lý tàu biển, hoặc đảm nhận làm thủ tục hải quan, giao nhận hàng hoặc thuê tàu biển, chứ chưa đủ lực để thực hiện một công đoạn dài của logistics. Chính vì thế, làm thế nào để các DN hội nhập với khu vực trong lĩnh vực logistics? Đây là câu hỏi được các chuyên gia đặt ra khi đề cập đến sự phát triển của các DN đang hoạt động trong lĩnh vực này.
Ông Sia cho biết thêm, miền Trung có một số DN logistics lớn, nhưng hoạt động chưa mạnh vì hàng hóa không nhiều, vì vậy logistics phát triển chưa cao. Theo Bộ Công Thương, khó khăn quan trọng nhất là cơ sở hạ tầng thấp chưa cập nhật với thế giới, thứ hai là nguồn nhân lực còn hạn chế.
Theo số liệu của Bộ Giao thông - Vận tải, chi phí logistics của Việt Nam hiện chiếm khoảng 25% GDP, cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển như Mỹ và cao hơn các nước trong khu vực như Trung Quốc hay Thái Lan. Chi phí logistis cao làm giảm hiệu quả trong việc giới thiệu thị trường lao động giá rẻ và đẩy mạnh xuất khẩu. Do đó, vẫn còn nhiều khó khăn trong đầu tư phát triển và tổ chức mạng lưới logistic.
Một chuyên gia trong lĩnh vực này phân tích, các DN logistics nói chung mới chỉ hoạt động trong phạm vi nội địa hoặc một vài nước trong khu vực. Đây là nguyên nhân cản trở cung cấp các dịch vụ trọn gói cho khách hàng. Mặc dù các DN logistics đã có ý thức trong việc áp dụng công nghệ thông tin vào kinh doanh nhưng vẫn còn kém xa so với các DN logistics nước ngoài.
Nếu chỉ xét về khía cạnh xây dựng website, phần lớn website của DN chỉ đơn thuần giới thiệu về dịch vụ, thiếu hẳn các tiện ích mà khách hàng cần, như công cụ theo dõi đơn hàng (track and trace), lịch tàu, e-booking, theo dõi chứng từ...
Phân tích về những khó khăn mà các DN logistics hiện đang đối mặt, vị chuyên gia này cho hay, phần lớn các DN Việt Nam xuất khẩu hàng theo FOB, FCA (giao cho người chuyên chở), nên quyền định đoạt về vận tải đều do người mua chỉ định và dĩ nhiên người mua sẽ chỉ định một DN nước sở tại để thực hiện điều này. Bất cập này không phải dễ dàng giải quyết vì phần lớn các DN Việt đều là những nhà gia công hoặc nhà xuất khẩu cho những khách hàng lớn đã có những hợp đồng dài hạn với các DN logistics toàn cầu.
Một yếu tố khác cũng khiến DN logistics khó phát triển là giá nguyên liệu như xăng, dầu, điện đầu vào thường xuyên biến động, dẫn đến việc giá cung cấp các dịch vụ của các DN cũng biến động theo. Trong khi đó, các nhà sử dụng dịch vụ lại cần một cơ chế giá ổn định để có chiến lược phát triển trong dài hạn.
Ông Hiro Yamaoka, Trưởng đại diện Jetro Hà Nội cho rằng, bên cạnh cơ sở hạ tầng chưa được nâng cấp cải thiện, chuỗi cung ứng dịch vụ còn yếu thì việc mời chào các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam không phải dễ dàng. Các DN Nhật cần một cơ chế giá liên quan đến dịch vụ logistic ổn định để có chiến lược phát triển dài hơi tại Việt Nam.
Cả nước có khoảng 800 DN hoạt động trong lĩnh vực logistics, đa phần là DN nhỏ và rất nhỏ với 80% trong số đó có tổng vốn pháp định ít hơn 1,5 tỷ đồng. Do đó, các DN chỉ dừng lại ở việc làm đại lý cấp 2, cấp 3, thậm chí cấp 4 cho các đối tác nước ngoài có mạng lưới toàn cầu. |