Khi chính sách lỗi nhịp
Người di cư và dân địa phương cùng thiệt
Anh Nguyễn Văn Tư vừa trở lại thành phố ít ngày sau khi đưa cậu con trai 6 tuổi về quê ở huyện miền núi thuộc tỉnh Nghệ An để chuẩn bị nhập học lớp 1. Mang con lên Thủ đô mưu sinh đã 5 năm, đây là năm đầu tiên vợ chồng anh phải xa con. Lý do là chị không thể xin học cho cháu vào bất cứ trường tiểu học nào quanh phường Quỳnh Lôi, quận Hai Bà Trưng, nơi cả gia đình đang thuê trọ, đành đưa con về học ở trường làng nhận suất học không mất phí. “Phải xa con, vợ chồng tôi cũng chẳng đành, nhưng không biết bấu víu vào đâu để xin học cho cháu”, anh Tư thở dài nói.
Lao động di cư đóng góp mạnh vào phát triển kinh tế, song khó có thể cải thiện đời sống của chính họ
Trường hợp của gia đình anh Tư không phải là hy hữu mà trở thành chuyện “thường ngày” đối với lớp người di cư ra thành phố. Theo một báo cáo mới đây của Cục Việc làm (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) về đời sống của lao động di cư từ nông thôn ra thành thị, có tới 12,8% số hộ di cư có con từ 5-18 tuổi không được đi học.
Không những vậy, quá trình di cư còn tạo sức ép lớn lên hệ thống giáo dục công lập khu vực thành thị, làm tăng vọt nhu cầu học đối với các bậc tiểu học, mẫu giáo. Tình trạng xếp hàng đăng ký cho con theo học mầm non, tiểu học vẫn lặp lại hàng năm và sức ép này ngày một gia tăng trong những năm gần đây. Thậm chí, ngay cả đối với những gia đình có hộ khẩu thường trú cũng phải rất khó khăn mới có thể xin được cho con “một suất” để theo học hệ giáo dục công lập.
Thực trạng này cho thấy quá trình di cư không những không giúp gia tăng điều kiện tiếp cận giáo dục cho các thành viên đi kèm như kì vọng của người lao động, mà còn khiến lợi ích của người dân ở nơi tiếp nhận người di cư bị chia sẻ.
Nhiều địa phương vẫy gọi đầu tư ồ ạt mà không tính đến đằng sau các dự án, các khu công nghiệp là hàng ngàn người di cư về địa phương. Và bất cập đằng sau nó là không ít những hệ lụy…
Bên cạnh đó, quá trình di cư cũng tạo ra sức ép đối với cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm… tại nơi ở mới mà chính quyền khó có thể đáp ứng nhu cầu tăng quá cao của người di cư và gia đình họ. Chưa kể, người di cư cũng mang theo những đặc điểm văn hóa mang tính chất vùng miền mà những đặc điểm này dễ tạo ra xung đột với những đặc điểm văn hóa tại địa phương sở tại.
Tình trạng gia tăng dân số nhanh chóng với nhiều thành phần xã hội khác nhau cũng kéo theo những tệ nạn xã hội có thể ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự. Khảo sát của Cục Việc làm cũng cho thấy, có tới 51,3% người lao động di cư cho rằng, tình trạng mất an ninh trật tự thường đến từ chính những nhóm người có hoàn cảnh giống như họ.
Chính sách áp vô tội vạ
Cũng theo khảo sát trên cho thấy, 92,9% số người lao động di cư được hỏi cho rằng địa phương sở tại không có bất kỳ hỗ trợ gì cho họ. Chỉ 2,7% đánh giá vai trò nổi bật nhất của địa phương là đảm bảo an ninh trật tự tại nơi người di cư thuê trọ, tuy nhiên vai trò này cũng rất mờ nhạt.
Ở một góc nhìn khác, trong chính những cơ quan thiết kế chính sách và quản lý lao động cũng đang có những bất đồng ý kiến. Ông Phạm Vũ Dũng Hà, Trưởng phòng Việc làm (Cục Việc làm) chỉ ra bất cập khi cho rằng nhiều địa phương vẫy gọi đầu tư ồ ạt mà không tính đến đằng sau các dự án, các khu công nghiệp là hàng ngàn người di cư về địa phương. Ngay trong quá trình thẩm định dự án, phê duyệt kế hoạch đầu tư hàng năm, ngành lao động cũng không được cùng ngồi bàn thảo hay tham vấn ý kiến về các chính sách cho số lao động này. Tuy nhiên, “cứ mỗi khi có vấn đề về an sinh xã hội phát sinh từ nhóm người này thì ngành lao động lại bị “gõ đầu” trước tiên”, ông Hà nói.
Đại diện một trong những địa phương phát triển mạnh về khu công nghiệp, bà Nguyễn Thị Kim Thoa, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương cho biết thêm, Bộ có rất nhiều văn bản tham mưu cho nhà nước “áp” xuống địa phương, nhưng nhiều đề án không kèm theo nguồn lực để thực hiện, trong khi ngân sách địa phương chỉ có hạn. Hiện ngân sách cấp xuống hàng năm tại Bình Dương chỉ tính dựa trên 1,8 triệu người dân có hộ khẩu tại đây, trong khi còn tới hơn 1 triệu lao động di cư cũng cần tiếp cận các dịch vụ thiết yếu thì không được tính đến.
Hay như trong lĩnh vực giáo dục, năm học tới này, tỉnh cần khoảng 2.000 tỷ đồng để xây và nâng cấp trường học cho 24.000 học sinh, nhưng số này không được ngân sách tính đến. Chưa kể, không ít tỉnh thành phát triển về khu công nghiệp đã xuất hiện tình trạng người dân địa phương không muốn học nghề, trong khi lao động nhập cư đa số không có trình độ kỹ thuật thì lại không thuộc đối tượng được học nghề.
Từ nhận thức đến thiết kế chính sách rõ ràng là còn nhiều bất cập gây ra những hệ lụy không nhỏ cho xã hội nói chung và những người di cư trực tiếp nói riêng. Việc tìm ra các giải pháp hỗ trợ mặc dù được các cơ quan chức năng “đặt lên bàn cân” đã lâu với những mổ xẻ khá kỹ lưỡng, song xem ra từ chính sách đến thực tế vẫn còn những “khoảng trống” khó lấp đầy, do sự thiếu nhất quán, đồng bộ và bài bản chiến lược.
Để lực lượng lao động di cư bớt chịu những thiệt thòi đồng thời tận dụng tối đa những lợi ích mà họ mang lại cũng như hạn chế những mặt trái từ chính thành phần này, đòi hỏi, bên cạnh sự hỗ trợ từ phía nhà nước là những chính sách ban hành không bị … lỗi nhịp!
Ngọc Khanh