Nông nghiệp Việt Nam: Hóa giải thách thức khi hội nhập?
Ông David Shear |
Hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt sau khi gia nhập WTO và tham gia hàng loạt các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu vực đã mang lại lợi ích lớn cho kinh tế Việt Nam. Thành quả đó được ghi nhận trên nhiều khía cạnh của nền kinh tế, sự thay đổi trong tư duy điều hành chính sách và tác động đến cả phương án sản xuất của từng cá nhân và tổ chức. Ngược lại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra cho Việt Nam không ít thách thức, không chỉ nền kinh tế nói chung mà đi vào cụ thể từng lĩnh vực, từng ngành đều thấy khó khăn còn rất lớn để thụ hưởng tối đa những lợi thế của “toàn cầu hóa”.
Lĩnh vực nông nghiệp không nằm ngoài những tác động từ quá trình hội nhập này, trong đó bên cạnh những thách thức mang tính “muôn thuở” còn có thêm cả những thách thức mới khi danh sách tham gia FTA của Việt Nam ngày càng nhiều thêm. Những yếu kém của nông nghiệp Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ hơn khi trong thời gian rất ngắn tới đây, Việt Nam sẽ là thành viên của hàng loạt FTA khu vực, liên khu vực mới. Ví dụ như: Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP); FTA với EU; Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); Cộng đồng Kinh tế chung Đông Nam Á (AEC)…
Một trong những yếu tố vừa là thách thức, song cũng vừa là nguyên nhân của những yếu kém là quy mô sản xuất của nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Theo một nghiên cứu của Tổ chức Nông lương thế giới (FAO), ngành nông nghiệp Việt Nam hiện đang dựa vào 99% trong số 10 triệu nông hộ trực tiếp tham gia vào sản xuất nông nghiệp là nông hộ nhỏ (sở hữu dưới 2 ha đất canh tác). Để tăng khả năng cạnh tranh cho ngành, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, cần nhanh chóng nghiên cứu, xem xét mở rộng quy mô sản xuất hiện nay để tạo cơ hội cho ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật cao vào sản xuất, gia tăng giá trị sản xuất và đảm bảo phát triển bền vững.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) Trương Đình Tuyển cho rằng, Việt Nam nên phát triển một nền nông nghiệp “đa chức năng” theo hướng vừa sản xuất, vừa chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu; đồng thời cần phát triển sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường, bảo vệ sinh thái. Hai biện pháp cần được áp dụng song song để xây dựng được nền nông nghiệp “đa chức năng” này là ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và tổ chức lại sản xuất với các mô hình sản xuất khác nhau. Trong đó, cần tăng cường thu hút đầu tư xã hội vào nông nghiệp; đưa ra các hình thức liên kết giữa DN với nông dân; giữa nông dân với nhau và đẩy mạnh mô hình đối tác công tư (PPP)… chứ không chỉ dừng lại ở việc mở rộng thị trường xuất khẩu.
Cơ hội của nông nghiệp Việt Nam được vị “Tư lệnh ngành” - ông Cao Đức Phát nói gọn: “Chúng tôi hiểu hội nhập kinh tế quốc tế không phải chỉ là mở rộng thị trường mà là tăng khả năng tiếp cận với khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, nguồn vốn và rất nhiều yếu tố khác nữa và đây là động lực để thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp có hiệu quả”.
Xung quanh vấn đề này, phóng viên TBNH đã có cuộc phỏng vấn nhanh với ông David Shear, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Đánh giá của ông về sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu thời gian qua?
Tôi nghĩ trong giai đoạn 10 – 15 năm trở lại đây, Việt Nam đã hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu mạnh và được hưởng lợi nhiều từ quá trình này. Như thương mại với Hoa Kỳ sau khi hai bên ký hiệp định thương mại song phương vào năm 2001 đã tăng lên đáng kể. Tôi cũng kỳ vọng khi TPP đàm phán xong sẽ mang lại những lợi ích lớn như vậy cho Việt Nam.
Nhưng ông có cho rằng yếu tố thách thức luôn lớn hơn khả năng nắm bắt cơ hội của Việt Nam?
Tôi nghĩ cơ hội và thách thức luôn song hành khi chúng ta tham gia bất kỳ một FTA nào. Trong đó, các cơ hội và lợi ích là giúp tăng cường sự hiệu quả, tăng khả năng sinh lời và mang lại chất lượng cuộc sống tốt hơn cho mọi người… Do đó tôi kỳ vọng rằng, Việt Nam hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới. Trong đó, việc Việt Nam là thành viên đàm phán TPP thì các lợi ích được kỳ vọng sẽ vượt trội hơn so với các thách thức.
Nông nghiệp là một trong những trụ đỡ quan trọng cho kinh tế Việt Nam, ông có khuyến nghị nào cho Việt Nam về lĩnh vực này?
Nông nghiệp là một ngành đặc biệt quan trọng đối với kinh tế Việt Nam. Phần lớn dân số Việt Nam vẫn sống dựa vào nông nghiệp. Xuất khẩu các hàng hóa nông nghiệp cũng đóng góp quan trọng cho kinh tế. Đơn cử, giao dịch thương mại liên quan đến hàng hóa nông nghiệp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lên tới 4 tỷ USD trong năm ngoái, trong đó Việt Nam xuất khẩu trên 2 tỷ USD. Do đó, tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm cho rằng, nông nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung, cũng như cho thương mại của Việt Nam với các nước nói riêng.
Điều quan trọng nhất là cần theo sát với thị trường thế giới, đồng thời chủ động dự báo các tác động có thể có đối với các ngành, lĩnh vực nói chung, nông nghiệp nói riêng khi trở thành thành viên của một hiệp định nào đó để có các biện pháp hóa giải phù hợp.
Vậy thách thức lớn nhất đối với Việt Nam trong giai đoạn cuối của đàm phán TPP?
Quá trình đàm phán các FTA luôn đòi hỏi các thành viên phải có thay đổi, chứ không chỉ riêng với Việt Nam. Và tất nhiên giai đoạn cuối của đàm phán bao giờ cũng là phần khó khăn nhất. Nhưng tôi nghĩ các nhà đàm phán Việt Nam rất cứng rắn nên tôi chắc chắn họ sẽ nỗ lực để đạt được các thỏa thuận có lợi cho Việt Nam.
Trong dự thảo TPP có một chương về DNNN và Việt Nam không phải là nước duy nhất trong TPP có DNNN. Việc đạt được một thỏa thuận về vấn đề này sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia vì sẽ tạo ra sân chơi công bằng giữa DNNN với các DN tư nhân, cũng như khuyến khích các DNNN thúc đẩy minh bạch và khả năng quản trị. Điều này sẽ mang lại cho chính những DNNN trong tương lai, đồng thời là sự công bằng cho những DN khác đang cạnh tranh với họ trên thị trường.
Xin cảm ơn ông!
Đỗ Lê thực hiện