Tái cấu trúc: Bao giờ thì xong?
Sáng nay (3/5/2012) Viện Kinh tế Việt Nam đã tổ chức Hội thảo Tái cấu trúc đầu tư công và Tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước.
Những "dị biệt" của tăng trưởng:
Theo tiến sĩ Trần Đình Thiên, những năm qua – cụ thể là từ khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007) đến nay, cho thấy tình trạng “không giống ai” trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Cụ thể, cơ hội phát triển nhiều, tiềm năng phát triển lớn, tốc độ tăng trưởng khá cao được duy trì khá bền vững, song nền kinh tế càng phát triển càng bị mất cân đối lớn, rơi vào tình trạng lạm phát cao và bất ổn vĩ mô kéo dài. Kéo theo đó là sự suy giảm lòng tin ngày càng nặng.
Sự tái diễn lạm phát qua từng năm và sự xói mòn lòng tin thị trường trong thời gian qua không chỉ cho thấy tình trạng có vấn đề nghiêm trọng của mô hình tăng trưởng và cơ cấu bên trong của nền kinh tế. Nó còn bộc lộ những yếu kém trong cách thức hành động để ổn định hóa tình hình, khôi phục trên cơ sở tăng trưởng bền vững.
Tiến sĩ Thiên cho rằng, quản trị vĩ mô không thể hành động theo cách “cứ tập trung lo giải cho xong những bất ổn ngắn hạn, sau đó bắt tay vào tái cấu trúc”. Ngược lại, phải đặt việc giải quyết các vấn đề ngắn hạn, dù rất nóng bỏng trên nền tảng giải quyết các vấn đề dài hạn (tái cấu trúc).
Điều này cho thấy việc làm rõ các vấn đề cấu trúc bên trong có ý nghĩa quyết định; cấu trúc nền kinh tế cần phải được “đại phẫu” để phát hiện thực chất căn bệnh và căn nguyên của tình hình.
Cần bao nhiêu vốn cho cách thức tăng trưởng đầy tham vọng?
Tiến sĩ Thiên dẫn đề: Thử nhìn lại – dù chỉ một cách ‘phiến diện’ bức chân dung hiện tại của nền kinh tế Việt Nam để có sự hình dung sơ bộ về thực trạng cơ cấu của nó.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta mới đạt quy mô GDP 130 tỷ USD và để sản xuất ra 130 tỷ USD đó, nền kinh tế gồm có: hơn 100 ngân hàng và chi nhánh nước ngoài đang hoạt động, bình quân mỗi một ngân hàng phục vụ cho việc tạo ra hơn 1 tỷ USD GDP, ngoài ra còn có hàng trăm các công ty chứng khoán, công ty tài chính; 100 cảng biển và mỗi cảng biển cũng chỉ phục vụ cho việc sản xuất ra khoảng 1 tỷ USD; 18 khu kinh tế ven biển, gần 30 khu kinh tế cửa khẩu, hơn 280 khu công nghiệp và hơn 650 cụm công nghiệp…
Theo bất cứ chuẩn mực nào thì sự phân bố công nghiệp như vậy đều cho thấy sự dàn trải, phân tán và lãng phí nguồn lực. Trong vòng 10 năm qua, Việt Nam có thêm 233 trường cao đẳng, đại học, tính trung bình mỗi tháng cả nước có thêm 2 trường từ đó thấy sự dễ dãi trong việc xây dựng một cấu trúc phát triển thuộc đẳng cấp cao nhất.
Từ cách thức tăng trưởng đầy tham vọng này các diễn giả tham dự hội thảo đặt câu hỏi: Việt Nam phải cần bao nhiêu vốn phải bỏ ra trong quãng thời gian dự kiến để đạt được các mục tiêu dự định mà vẫn đảm bảo được tính hiệu quả? Sự dàn trải đầu tư quá rộng và mỏng trong khi năng lực quản trị có hạn và trong bối cảnh một nền kinh tế chuyển đổi – hội nhập quốc tế nhanh thì hậu quả sẽ là gì?
Khi trả lời được các câu hỏi đó, tự khắc cũng sẽ hiện ra được câu trả lời cho những câu hỏi cơ bản khác như: Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, ai là người sản xuất ra GDP và sản xuất ra bao nhiêu? Các câu hỏi đó cũng tương đương với các câu hỏi đang đặt ra rất gay gắt: nền kinh tế, ngân sách Nhà nước, các tỉnh đang nuôi các khu kinh tế, khu công nghiệp hay ngược lại.
Chấm dứt việc “khoán trắng đầu tư công”
Tiến sĩ Võ Đại Lược – Viện Kinh tế và Chính trị thế giới - cho rằng, dẫn đến việc đầu tư dàn trải kém hiệu quả chính là sự quá dễ dãi trong việc phân cấp và quản lý đầu tư công. Chính vì thế cần đổi mới việc quản lý các vùng kinh tế.
Tiến sĩ Lược dẫn chứng, Luật đầu tư ngân sách năm 2004 quy định việc phân bổ vốn đầu tư giao chủ yếu cho các ngành và các địa phương, tạo chủ động cho các đơn vị. Các dự án đầu tư được phân ra 4 nhóm: Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định, Còn các nhóm A từ 200 tỷ đồng trở lên, Nhóm B từ 30 tỷ đồng đến 600 tỷ đồng, Nhóm C từ 30 tỷ đồng trở xuống đều được phân chia cho các ngành và địa phương tự xét duyệt.
Nghị định trên hầu như đã giao quyền cho các ngành và địa phương thẩm định và những quyết định đầu tư, gần như là “khoán trắng” cho các cơ quan trung ương dường như giám sát, kiểm tra chiếu lệ mang tính chất hình thức, không có chế tài kỷ luật nghiêm ngặt. Do vậy việc quản lý điều chỉnh vĩ mô trong đầu tư công đang bị buông lỏng – Tiến sĩ Lược nói.
“Phải thực hiện quy hoạch vùng phát triển trước, từ quy hoạch vùng mà tính tới quy hoạch phát triển của các tỉnh chứ không phải ngược lại như hiện nay” – tiến sĩ Lược nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, tiến sĩ Lược cho rằng, tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước không chỉ theo hướng tiết kiệm chi tiêu, không kinh doanh các lĩnh vực ngoài ngành được giao… mà quan trọng hơn là phải giảm tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp Nhà nước từ 28% GDP hiện nay xuống còn khoảng 15% GDP và thực hiện quản trị doanh nghiệp theo chế độ quản lý xí nghiệp hiện đại của OECD.
"Thủ tướng không nên trực tiếp chỉ đạo các tập đoàn kinh tế mà nên giao các bộ ngành quản lý.", Tiến sỹ Lược đề xuất tại Hội thảo.
Đặc biệt, Chính phủ nên sớm ban hành Luật Đầu tư công theo hướng hiện đại và thông lệ quốc tế. Đồng thời, sửa đổi các Luật liên quan đến đầu tư công như Luật đấu thầu, Luật xây dựng, Luật ngân sách, Luật đất đai, Luật phòng chống tham nhũng… theo tinh thần của Luật Đầu tư công sẽ được soạn thảo.
Ông Vũ Tuấn Anh – Viện Kinh tế Việt Nam bổ sung thêm ý kiến, một trong những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam hiện nay lại chính là các bất cập về năng lực quản lý của bộ máy, vốn là mối đe dọa nghiêm trọng đến hiệu quả đầu tư và tăng trưởng trong tương lai. Vì vậy, đồng thời với trao quyền, cần có chương trình và giải pháp để nhanh chóng nâng cao năng lực cho các cơ quan này.
Theo Khánh Linh – Cao Sơn (TTVN)