Tín dụng trong cuộc chuyển mình ngành mía đường
Ngành mía đường vẫn chưa hết lo | |
Mía đường đối mặt với hội nhập | |
Mía đường: Tái cơ cấu để gỡ khó |
Người dân trồng mía theo mô hình liên kết chuỗi giá trị hiện nay đảm bảo được đầu ra và có lãi khoảng 2.000-3.000 đồng/kg |
Bài học từ “một triệu tấn đường”
20 năm trước, ngành mía đường Việt Nam đứng trước tình trạng thiếu hụt phần lớn nguồn cung đường nội địa. Mỗi năm ngân sách phải bỏ ra tiền tỷ để nhập khẩu (NK) từ 300-500 ngàn tấn đường. Thời điểm đó, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (sau này là Bộ NN&PTNT) đã đề xuất “chương trình 1 triệu tấn đường”.
Vào tháng 4/1994, Chính phủ đã thông qua chương trình này và tổ chức triển khai rộng khắp trên địa bàn cả nước với kỳ vọng đây là một chương trình lớn, sẽ đạt hiệu quả cao và nhanh chóng đưa sản lượng đường sản xuất nội địa lên 1 triệu tấn vào năm 2000, thậm chí có thể dư ra khoảng 3-5 triệu tấn để xuất khẩu vào các năm sau.
Để thực hiện chương trình, thời điểm đó Chính phủ đã đưa ra hàng loạt các chính sách ưu đãi. Chẳng hạn như: miễn giảm thuế sử dụng đất cho người trồng mía; trợ giá mua mía nguyên liệu cho nông dân; chỉ đạo các NHTM cho mỗi hộ trồng mía vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản; cho phép các nhà máy đường được trích lại 10% giá mía để phát triển vùng nguyên liệu…
Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành nhiều quyết định cho phép giảm lãi suất, tăng thời hạn cho vay; bù chênh lệch tỷ giá; cho vay ưu đãi trả nợ nước ngoài; giảm thuế trong các năm 1999-2000 và cấp đủ vốn lưu động, vốn dự trữ đường cho các nhà máy hoạt động.
Với tất cả những ưu đãi trên, kết thúc chương trình 1 triệu tấn đường vào cuối năm 2000, ngành mía đường cũng đạt được một số thành tựu nhất định. Theo đó, vùng nguyên liệu mía tập trung tăng lên gấp 2 lần (đạt trên 344.200 ha) so với thời điểm 1994, sản lượng mía thu hoạch cũng tăng 2,3 lần, đạt mức trên 17,7 triệu tấn. Cả nước xây dựng được hệ thống cơ sở chế biến đường công nghiệp với 44 nhà máy với tổng công suất thiết kế trên 78.200 tấn mía/ngày.
Tuy nhiên, chương trình cũng vấp phải hàng loạt những hạn chế, bất cập. Cụ thể, mối liên kết giữa sản xuất – chế biến – tiêu thụ mía không được phối hợp đồng bộ dẫn tới hàng loạt nhà máy khi xây dựng xong không có nguyên liệu chế biến. Việc áp dụng chủ yếu các loại giống mía NK (đa số Đài Loan, Trung Quốc) dẫn tới năng suất thấp và không ổn định.
Cơ chế phối hợp giữa nhà máy đường và nông dân trồng mía không được chú trọng đến sự hài hòa lợi ích giữa các bên dẫn tới hàng loạt các đổ vỡ liên kết. Từ đó, hiện tượng tranh mua mía nguyên liệu giữa các nhà máy liên tục tiếp diễn và lặp lại nhiều năm sau khi chương trình 1 triệu tấn đường kết thúc.
Đặc biệt, riêng về vấn đề phối hợp cung cấp tài chính cho ngành mía đường thì chương trình 1 triệu tấn đường có thể xem như thất bại. Bởi theo kế hoạch mà Chính phủ đề ra vào thời điểm năm 1995, trong giai đoạn 1996-2000 cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển mía đường là: vốn ngân sách 21%, tín dụng Nhà nước 7%, DN đầu tư 24%, đầu tư của dân 17%, đầu tư trực tiếp của nước ngoài 31%.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu, thống kê của Viện Nghiên cứu Mía đường (SRI) thực tế sau 5 năm, chương trình không thu hút được một đồng vốn ngân sách nào, nguồn đóng góp của các DN trong nước cũng không đáng kể. 52,3% nguồn vốn của chương trình đến từ nguồn vay tín dụng thương mại, hơn 47% còn lại là nguồn đầu tư trực tiếp từ các DN nước ngoài.
Như vậy toàn bộ vốn đầu tư xây dựng các nhà máy đường trong thời kỳ triển khai chương trình 1 triệu tấn đường là vốn vay trong và ngoài nước. Theo số liệu của SRI đến cuối tháng 3/2000, lãi vay và phí đến hạn phải trả của các dự án trung ương và địa phương là 506 tỷ đồng, gần bằng số nợ gốc phải trả là 697 tỷ đồng.
Do thời hạn phải trả nợ vay nước ngoài ngắn (7 năm) nên khấu hao và lãi vay chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá thành, điều này khiến cho giá thành sản xuất đường tại Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Vốn tín dụng “cứu” mía vào lúc khó nhất
Kết thúc chương trình 1 triệu tấn đường, suốt các năm từ 2001-2006, ngành mía đường tiếp tục quanh quẩn với những bất cập về nguyên liệu, về tài chính và năng suất mía. Trong suốt 5 năm đó, sản lượng mía hầu như tăng không đáng kể so với mức trên 17 triệu tấn của năm 2000, năng suất mía cũng chỉ trồi sụt ở mức 55-56 tấn/ha.
Trồng mía cho thu nhập thấp khiến hàng ngàn hộ dân chuyển sang các loại cây trồng khác có hiệu quả hơn. Các nhà máy đã xây dựng đói nguyên liệu tiếp tục mất sức cạnh tranh trên thị trường, hàng năm ngân sách Trung ương và các địa Phương vẫn phải bỏ ra hàng nghìn tỷ đồng để NK 200 ngàn tấn đường phục vụ nhu cầu trong nước.
Để cứu vãn ngành mía đường, năm 2007 một lần nữa Chính phủ lại tiếp tục ban hành Quyết định 26/2007 QĐ-TTg quy hoạch phát triển mía đường đến năm 2010 và định hướng đến 2020.
Trong lần này, Chính phủ đưa ra một loạt các ưu đãi mới như: hỗ trợ vốn NK mía giống, đầu tư ngân sách xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài nhà máy (giao thông, thủy lợi, cải tạo đồng ruộng…), quyết tâm đạt được mục tiêu xây dựng 300 ngàn ha mía nguyên liệu, sản lượng mía đạt 19,5 triệu tấn/năm và sản lượng đường là 1,5 triệu tấn.
Tuy nhiên, chương trình cứu ngành mía đường của Chính phủ một lần nữa rơi vào ngõ cụt. Đến cuối năm 2010, theo những số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích mía chỉ đạt 266.300 ha, sản lượng mía cả nước chỉ đạt hơn 15,9 triệu tấn và sản lượng đường thì chưa đầy 1 triệu tấn.
Bước sang những năm 2013-2014 tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi giá mía đường thế giới xuống thấp đến mức kỷ lục. Đường sản xuất tại các nhà máy trong nước một mặt không cạnh tranh được với các loại đường NK, mặt khác không cạnh tranh được với chính sản phẩm đường của DN Việt Nam nhưng được trồng và chế biến tại các nước láng giềng là Lào và Campuchia.
Thời điểm này chính là thời điểm mà hầu như tất cả các nhà máy đường lớn trong nước trở nên bi quan với thực tế không còn có sự bảo hộ từ Chính phủ. Chính lúc này, một chính sách mới của ngành NH bắt đầu thí điểm. Đó là chương trình cho vay theo chuỗi giá trị liên kết và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp theo Nghị quyết 14 của Chính phủ.
Nói về chương trình này, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cho rằng, đây là nhiệm vụ mà ngành NH tiên phong đặt ra để rồi lại chỉ đạo các NHTM triển khai thực hiện. Bởi qua quá trình cấp vốn cho nền kinh tế, ngành NH nhận thấy ở thời điểm hiện nay kinh tế hộ cá thể không còn phù hợp với tình hình hội nhập và nhu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hóa.
Việc tạo ra các chuỗi liên kết giữa DN – nông dân và các NHTM trở thành nhu cầu tất yếu. Chính vì vậy 30 dự án thí điểm cho vay theo chuỗi giá trị từ tháng 3/2014 bắt đầu được rót vốn tín dụng. Trong đó có những dự án sản xuất – chế biến – tiêu thụ mía đường.
Theo NHNN Chi nhánh tỉnh Khánh Hòa vào giữa tháng 3 vừa qua cho thấy rõ rằng, việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất sử dụng vốn vay tín dụng khép kín của các NHTM đang là mô hình thích hợp để các DN ngành mía đường giải quyết những nút thắt về nguyên liệu cũng như tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Trong hai năm qua, Công ty mía đường Ninh Hòa tham gia vào dự án thí điểm với vốn theo chuỗi giá trị, DN đã được các NHTM trên địa bàn cho vay trên 568,7 tỷ đồng. Từ nguồn vốn này, công ty đã triển khai nhiều dự án đầu tư máy móc thiết bị nhằm nâng cao hiệu quả khai thác mía như: đầu tư nâng cao năng suất ép mía của nhà máy từ 4.300 tấn/ngày lên 5.200 tấn mía/ngày; đầu tư nhà máy nhiệt điện bã mía công suất 30MWH, xây dựng thành công vùng nguyên liệu theo mô hình cánh đồng mẫu lớn liên kết với trên 3.500 hộ dân với diện tích khoảng 650 ha với năng suất 62 tấn/ha.
Trong khi đó, đối với người nông dân trồng mía, khi tham gia mô hình liên kết chuỗi đã bán được sản phẩm với giá cao hơn gần 200 ngàn đồng/tấn so với các niên vụ trước. Ngoài ra các hộ được DN bảo hiểm chữ đường tối thiểu và trợ giá mua mía đầu vụ, cuối vụ, đảm bảo thu nhập cho người nông dân, giúp người nông dân gắn bó lâu dài với cây mía.
Như vậy, có thể kết luận rằng, với mô hình cho vay theo chuỗi giá trị khép kín, một hướng đi mới cho các DN ngành mía đường nội địa được xác lập. Việc áp dụng thành công mô hình sản xuất – chế biến – tiêu thụ mía dưới sự bảo trợ vốn của các NHTM mà công ty đường Ninh Hòa đã triển khai hiệu quả trong 2 năm qua có thể xem như một tín hiệu đáng mừng để các DN ngành này nhân rộng trong các năm tới. Từ đó, tạo ra bước đột phá, giải quyết những hạn chế bất cập mà nhiều năm nay ngành mía đường chưa giải quyết được.