Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Làm sao hướng tới sự bền vững?
Lâu nay, hoạt động phát triển cộng đồng, đặc biệt liên quan đến nâng cao các điều kiện sống tối thiểu cho người nghèo, đối tượng yếu thế… có sự đóng góp và hỗ trợ tích cực của các nguồn từ thiện (đến từ các tổ chức phi chính phủ nước ngoài - NGO, hoạt động hỗ trợ cộng đồng của các DN trong và ngoài nước, các nhà hảo tâm…).
Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam đã ở nhóm nước có TNTB, các nguồn hỗ trợ từ các tổ chức NGO nước ngoài đang giảm dần nên việc xây dựng được nguồn lực mới là rất cần thiết. Trong đó, hoạt động trách nhiệm xã hội (TNXH) và từ thiện từ cộng đồng của các DN được xem là nguồn ổn định và phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới.
Hoạt động từ thiện thiết thực, bài bản giúp gia tăng giá trị thương hiệu của DN |
Tập đoàn viễn thông Quân đội Viettel – một trong những tập đoàn lớn nhất cả nước trong những năm qua đã có rất nhiều hoạt động từ thiện, hỗ trợ cộng đồng. Tuy nhiên, hoạt động này của Viettel không mang tính bề nổi và ngắn hạn mà được xây dựng từ triết lý kinh doanh ngay từ đầu của tập đoàn là gắn kinh doanh với TNXH và xác định việc triển khai hoạt động này cũng chính là đầu tư cho tương lai của DN.
Theo bà Nguyễn Hà Thành – Giám đốc truyền thông của tập đoàn này, với triết lý đó, Viettel đã tiến hành các chương trình TNXH dựa trên thế mạnh và năng lực lõi của mình về công nghệ viễn thông và công nghệ thông tin với niềm tin sẽ giúp cộng đồng phát triển hơn nữa và đó cũng chính là đầu tư cho các khách hàng tương lai.
Đơn cử, ngay từ khi Viettel bắt đầu kinh doanh thì họ đã đầu tư cho nhóm khách hàng là những ngư dân trên biển thông qua phủ sóng điện thoại trên các vùng biển của Việt Nam. Đến nay, dọc bờ biển Việt Nam, Viettel đã thiết lập được hơn 2000 trạm thu phát sóng với bán kính ra ngoài khơi 100 km và năng lực phục vụ trên biển lên tới 10 triệu khách hàng.
Bên cạnh đó, tập đoàn này cũng triển khai các chương trình từ thiện chủ yếu sử dụng tài chính nhưng tập trung vào các mảng giáo dục (nổi bật là chương trình tài trợ học bổng cho 100% các xã của Việt Nam), y tế (chương trình “Trái tim cho em”) và người nghèo (chương trình tài trợ bò giống cho 24 nghìn hộ nghèo, chương trình hỗ trợ giảm nghèo bền vững…).
Tuy nhiên, để làm được một cách bài bản và chiến lược như Viettel không dễ bởi điều này một mặt đòi hỏi DN phải xây dựng được mục tiêu, chiến lược rõ ràng trong các hoạt động hỗ trợ cộng đồng (phần TNXH dựa trên thế mạnh của DN và phần tài chính hỗ trợ các chương trình từ thiện truyền thống như y tế, giáo dục, giảm nghèo…), mặt khác cần phải có nguồn lực tài chính và nhân lực đủ lớn để triển khai. Đây là điều không dễ dàng khi có trên 90% các DN hiện nay là DNNVV.
Do đó với đa số các DN, việc tự mình triển khai các hoạt động hỗ trợ cộng đồng một cách bền vững và thực sự mang lại hiệu quả tích cực lâu dài là rất khó khăn dù trong tâm nguyện của mình, họ luôn có một tấm lòng thiện nguyện, vì cộng đồng.
Theo một khảo sát về đóng góp từ thiện của 500 DN lớn nhỏ tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh do TS. Đặng Hoàng Giang, Trung tâm nghiên cứu phát triển hỗ trợ cộng đồng (Cecodes) trình bày tại buổi Tọa đàm “Hoạt động từ thiện của doanh nghiệp Việt Nam: Thực tiễn và nhu cầu chính sách” mới đây, đóng góp nhân đạo, từ thiện của khối DN ngày càng trở nên quan trọng trong công tác xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, với đa số DN được khảo sát, hoạt động từ thiện không được coi là một phần của mục tiêu kinh doanh do đó thiếu trầm trọng tính chiến lược. “Chủ yếu các hoạt động từ thiện mang tính bột phát, bề nổi, vụ việc và ngắn hạn mà không gắn kết với năng lực cốt lõi của DN” – TS. Giang cho biết.
Xây dựng lòng tin và thông thoáng chính sách
Chuyên gia này cho rằng, để giúp DN chuyển đổi sang từ thiện chiến lược, lâu dài và hiệu quả thì việc hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự (XHDS) là rất quan trọng.
Theo khảo sát này, hiện mới chỉ có 9% DN tham gia khảo sát, trong đó chủ yếu là các DN lớn đã từng hợp tác với các tổ chức XHDS địa phương. Hơn nữa, phần lớn các hợp tác chỉ là những tài trợ đơn giản, rất ít hoạt động hợp tác tư vấn, cùng nghiên cứu, tập huấn cho nhân viên, không có các dự án chung hay những hợp tác mang tính chiến lược.
Theo các chuyên gia, một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là do còn thiếu thông tin và lòng tin giữa các DN và các tổ chức XHDS. “Để hoạt động từ thiện của các DN được tiến hành một cách bài bản, có chiến lược và mang tính lâu dài thì đây chính là một trong những vấn đề mấu chốt cần giải quyết” – ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban pháp chế, VCCI nhận định.
Sự thiếu lòng tin ấy được thể hiện ở ngay chính việc tỷ lệ đại diện các DN tham dự các chương trình hội thảo liên quan tới vấn đề này rất thấp.
Theo chia sẻ của bà Tô Kim Liên, Giám đốc Trung tâm Giáo dục và Phát triển (CED), với 10 diễn đàn về hoạt động từ thiện của DN mà CED phối hợp với VCCI và một số đơn vị khác tổ chức từ năm 2014 đến nay, số lượng DN tham gia chỉ chiếm khoảng 40%.
“Các DN không muốn đến vì họ sợ là chúng tôi sẽ xin tiền, kêu gọi ủng hộ… Đây là một thực trạng hiện nay trong khi với các DN đến tham dự thì sau đó họ đều thể hiện sự quan tâm và muốn tham gia hợp tác để thúc đẩy hoạt động từ thiện lâu dài” – bà Liên cho biết.
Bên cạnh đó, một vấn đề khác đặt ra để DN cảm thấy vững tin, thoải mái hơn trong triển khai các hoạt động từ thiện xã hội thì cần xem lại các chính sách hiện tại có gì cản trở hay không, đặc biệt liên quan đến các chính sách về thuế liên quan đến các khoản chi cho hoạt động từ thiện.
Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) số 14/2008/QH12 ngày 3/6/2008, các khoản tài trợ cho giáo dục, y tế, khắc phục hậu quả thiên tai và làm nhà tình nghĩa cho người nghèo theo quy định của pháp luật được hạch toán vào chi phí tính thuế TNDN.
Tiếp đó, Luật số 32/2013/QH13 ngày 19/6/2013 bổ sung khoản tài trợ theo chương trình của Nhà nước dành cho các địa phương thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khác khăn (như chi cho làm cầu treo, đường dân sinh, nghiên cứu khoa học…) cũng được hạnh toán vào chi phí tính thuế TNDN.
Theo bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hiệp hội tư vấn thuế, một mặt cần tăng cường tuyên truyền phổ biến rộng rãi hơn nữa chính sách thuế hiện hành để DN nắm được và có cơ sở thực hiện, nhưng mặt khác cần nghiên cứu mở rộng thêm một số khoản chi phí được hạnh toán vào chi phí tính thuế TNDN liên quan đến môi trường, ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe cộng đồng (như khắc phục sự số “biển chết”, tai nạn sập hầm lò, chi phí bảo vệ môi trường…).
Các chuyên gia cũng cho rằng, việc bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện các quy định pháp luật và chính sách có liên quan nhằm khuyến khích từ thiện DN cũng rất cần thiết.
Cụ thể như cần sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNDN về các khoản được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo hướng không nên liệt kê quá cụ thể các khoản chi được trừ để phù hợp với thực tiễn hoạt động từ thiện rất đa dạng hiện nay. Hay cần có những hướng dẫn trình tự, thủ tục và yêu cầu hạch toán, kế toán cụ thể đối với các khoản chi tài trợ cho nghiên cứu khoa học…
Một hệ thống pháp luật và chính sách phù hợp chắc chắn sẽ tạo cơ sở và khuyến khích các DN tham gia từ thiện tốt và bài bản hơn.