Việt Nam tăng 14 bậc trong Bảng xếp hạng Môi trường thương mại toàn cầu
Ảnh minh họa |
Báo cáo đánh giá mức độ mà các nền kinh tế có tổ chức, chính sách, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ mà tạo điều kiện cho dòng chảy tự do của hàng hóa. Theo các tiêu chí này, Singapore đang dẫn đầu trong Bảng xếp hạng về môi trường thương mại năm 2016
Trong khi Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ được coi là trở nên ít mở cửa hơn đối với thương mại, thì khu vực ASEAN - trong đó bao gồm các quốc gia như Singapore, Indonesia và Philippines - bây giờ là dễ tiếp cận hơn.
Báo cáo cho rằng, sự gia tăng của ASEAN như một sức mạnh kinh tế để hội nhập sâu hơn của khu vực vào nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, trong 10 vị trí dẫn đầu, phần đồng vẫn là các nước châu Âu.
Với Việt Nam, Báo cáo đánh giá, cũng đã cải thiện đáng kể về mức độ thuận tiện thương mại và đã tăng 14 bậc lên vị trí thứ 73 trong Bảng xếp hạng. Điều này phần lớn là do những cải thiện trong quản lý biên giới, cải tiến hiệu quả hải quan (tại 66) và giảm thời gian thực hiện các thủ tục xuất-nhập cảnh hàng hóa (giảm khoảng 30 giờ cho cả hai trường hợp).
“Những thay đổi này phản ánh những nỗ lực gần đây của chính phủ để sắp xếp các thủ tục tại cửa khẩu và giảm bớt gánh nặng kiểm tra của nhiều cơ quan”, Báo cáo cho biết. Tuy nhiên, cũng theo báo cáo, Việt Nam vẫn còn cả chặng đường dài phía trước để đạt tới chuẩn mực quốc tế.
Báo cáo cũng ghi nhận Việt Nam đã có nhiều cải thiện trong việc tiếp cận với thị trường nội địa (xếp thứ 74, tăng 4 bậc), tăng tỷ trọng của hàng hóa nhập khẩu miễn thuế (71%, tăng từ 55% của2 năm trước đây)... Khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài của Việt Nam cũng đã được cải thiện. Môi trường hoạt động cũng đã được nâng cao, nhờ bảo vệ mạnh mẽ quyền sở hữu và tăng hiệu quả của các tổ chức công cộng.
Tuy nhiên mức độ cải thiện cơ sở hạ tầng không đồng đều, trong khi cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và kết nối hàng hải được cải thiện khá tốt, thì chất lượng dịch vụ lại suy giảm.
Được biết, Báo cáo "Môi trường thương mại toàn cầu 2016" của WEF được thực hiện 2 năm một lần và là thước đo về khả năng tổng thể của 136 nền kinh tế trên thế giới trong việc tạo điều kiện cho lưu lượng hàng hóa ra vào biên giới, quản lý biên giới, cơ sở hạ tầng vận tải và kỹ thuật số, các dịch vụ vận tải, và môi trường vận hành.