Chỉ số kinh tế:
Ngày 5/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.151 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.944/26.358 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Xuất khẩu gỗ lo rủi ro với nguồn nhập khẩu

PV
PV  - 
Nhiều DN và làng nghề gặp rủi ro khi xuất khẩu vì mua phải gỗ nguyên liệu không có nguồn gốc hợp pháp. Muốn tránh rủi ro, DN cần có cơ sở dữ liệu để tra cứu thông tin, loại bỏ những quốc gia cung cấp gỗ không có nguồn hợp pháp.
aa

“Làng nghề chúng tôi đang rất gay go khi hàng loạt sản phẩm gỗ trắc làm ra 4-5 năm nay không xuất khẩu được. Lượng sản phẩm này quy ra khoảng 50.000 m3 gỗ và giá trị rất lớn. Làm sao chúng tôi xuất được số hàng này bây giờ, các cơ quan chức năng hãy giúp chúng tôi”, ông Vũ Quốc Vương – Chủ tịch Hiệp hội Gỗ Đồng Kỵ “kêu trời”.

Xuất khẩu gỗ lo rủi ro với nguồn nhập khẩu
Ảnh minh họa

Một DN khác cũng dở khóc dở cười vì lô hàng gỗ nội thất bị khách hàng Hoa Kỳ từ chối bởi hàng được làm từ gỗ căm xe nhập khẩu từ Lào. Lượng gỗ căm xe này được khai thác từ dự án thủy điện, mà quá trình xin phép và thực hiện dự án này liên quan đến một số vấn đề như vi phạm các quy định có liên quan đến cộng đồng và các khoản thuế phí…

Việc của DN, chuyện của Đồng Kỵ cũng là chuyện rủi ro của nhiều DN và làng nghề khác: Chỉ vì không thể chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của gỗ nguyên liệu, chỉ vì gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ nhiều năm trước, nhập từ thị trường rủi ro cao không thể xuất khẩu vì không đáp ứng được yêu cầu chứng minh nguồn gốc gỗ hợp pháp. Mức độ rủi ro mà những nhà sản xuất đồ gỗ Việt Nam phải đối mặt đang rất rộng.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, hàng năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 160-170 loài gỗ nguyên liệu (là gỗ tròn và gỗ xẻ) từ hơn 100 quốc gia với khoảng 4-4,5 triệu m3, tương đương trên 1,5 tỷ USD. Xu hướng nhập khẩu gỗ ngày càng tăng cả về lượng và ngày càng đa dạng trong các loài nhập khẩu không chỉ thể hiện qua con số tổng số loài nhập khẩu hàng năm mà còn qua góc độ cùng một loài được nhập khẩu từ nhiều quốc gia khác nhau. Ví dụ trong năm 2015 cùng một loài gỗ hương xẻ được nhập khẩu từ 28 quốc gia; Trong 7 tháng đầu 2016, cùng loài gỗ lim tròn được nhập khẩu từ 20 quốc gia.

Theo ông Tô Xuân Phúc, đại diện của Tổ chức Forest Trends, sự đa dạng trong nguồn gỗ nhập khẩu có thể giúp DN giảm rủi ro trước những thay đổi về nguồn cung. Nhưng “tính đa dạng trong các loài nhập khẩu và quốc gia nhập khẩu là một thách thức vô cùng lớn đối với việc kiểm tra tính hợp pháp của nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu” - ông Nguyễn Tôn Quyền – Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam (VIFORES) nhấn mạnh.

Nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu đang và sẽ tiếp tục có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành gỗ. Sản xuất gỗ càng phát triển, nhu cầu nhập khẩu gỗ nguyên liệu càng lớn.

Vì vậy, kiểm soát tính hợp pháp của nguồn gỗ nhập khẩu đã được Forest Trends cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), VIFORES, Hiệp hội gỗ và lâm sản Bình Định (FPA Bình Định) và Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ TPHCM (HAWA) quan tâm từ nhiều năm nay.

Để kiểm soát loài và nguồn gốc gỗ, kiểm soát hiệu quả tính hợp pháp của gỗ nhập khẩu, tránh cho DN gặp rủi ro như Đồng Kỵ đòi hỏi cần có đầy đủ thông tin có liên quan đến các khâu của chuỗi cung nơi gỗ được khai thác và xuất khẩu. Một cơ sở dữ liệu xuất, nhập khẩu gỗ, trong đó có dữ liệu cho từng loài gỗ cụ thể và từng quốc gia xuất khẩu gỗ đang là một nhu cầu cấp thiết.

Hiện các loài gỗ nhập khẩu vào Việt Nam được chia làm 2 nhóm chính. Nhóm thứ nhất bao gồm các loài như tần bì, bạch đàn, sồi, dương, thông… có nguồn gốc từ các khu rừng trồng hoặc/và các nước ôn đới, nơi gỗ nguyên liệu được coi là có độ rủi ro thấp về mặt pháp lý.

Nhóm gỗ thứ hai được nhập khẩu vào Việt Nam là các loài gỗ có nguồn gốc từ các khu rừng nhiệt đới, phần lớn là các loài được cho là có độ rủi ro pháp lý cao. Lượng nhập khẩu nhóm này vẫn ở mức cao, 20-30% trong tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu và 60-70% trong tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu.

Tỷ trọng này đồng nghĩa với việc nhiều DN chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam không chỉ đối mặt với các rủi ro về mặt pháp lý mà còn tiếp tục bị ảnh hưởng đến hình ảnh thương hiệu khi xuất khẩu.

Các DN cho biết đây là vấn đề rất thời sự và rất nóng, rất phức tạp.“Tôi đã trực tiếp gặp tham tán thương mại Hoa Kỳ. Vị này cảnh báo TPP được ký kết thì nguy cơ chống bán phá giá đối với sản phẩm gỗ tăng lên bởi họ luôn luôn đề cao việc bảo hộ sản xuất trong nước. Gỗ mà bị kiện bán phá giá thì nguy hiểm hơn chuyện cá basa và hàng dệt may bị kiện rất nhiều”, một DN xuất khẩu gỗ ở TP.Hồ Chí Minh phát biểu.

Bộ dữ liệu về thương mại gỗ Việt Nam và thế giới được VCCI , VIFORES, FPA Bình Định, HAWA nghiên cứu từ nhiều năm và đang tiếp tục được cập nhật thường xuyên. Bộ dữ liệu này điểm lại thương mại gỗ từng năm, thương mại gỗ với từng quốc gia và các thông tin về địa bàn khai thác của từng loại gỗ, tên của các loài gỗ, bao gồm tên địa phương, tên tiếng Anh và tên La tinh, tình trạng đất đai, tình trạng sở hữu đối với cây đứng… đối với từng loài gỗ nhập khẩu. Các thông tin sẽ góp phần quan trọng trong việc xác định các rủi ro có liên quan trực tiếp nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu, giúp các DN có được sự chuẩn bị tốt hơn khi tham gia hội nhập, đồng thời mở rộng hơn nữa cơ hội xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu…

PV

Tin liên quan

Tin khác

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ lên nông nghiệp Việt Nam, từ miền núi đến đồng bằng. Trong bối cảnh khó khăn chồng chất, ngành nông nghiệp và môi trường vẫn ghi nhận tín hiệu phục hồi, đặc biệt ở xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản.
Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2229/QĐ-TTg ngày 09/10/2025. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một chiến lược đồng bộ, toàn diện và dài hạn về logistics, đánh dấu bước ngoặt lớn của ngành trong giai đoạn mới.
TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ TP.HCM (HASI) và Viện Quản trị Chính sách và Chiến lược phát triển (IPADS) tổ chức Diễn đàn “Thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu” tại Trung tâm Triển lãm Quốc tế WTC Expo, phường Bình Dương, TP.HCM.
Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Công ty TNHH AEON Việt Nam tổ chức Lễ khai mạc “Tuần lễ kết nối giao thương và không gian giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại AEON Việt Nam năm 2025”. Sự kiện diễn ra tại AEON MALL Bình Tân, nằm trong chuỗi hoạt động xúc tiến thương mại thường niên hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng đầu ra và tiếp cận hệ thống phân phối hiện đại.
VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

Sau một năm chính thức có hiệu lực, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Israel (VIFTA) đang dần định hình vai trò là một cấu phần quan trọng trong mạng lưới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Với mức độ cam kết sâu, thị trường tiềm năng và cấu trúc kinh tế bổ trợ, VIFTA không chỉ mở ra cơ hội xuất khẩu mà còn đặt ra yêu cầu mới về cải cách thể chế, nâng cao năng lực doanh nghiệp và hoàn thiện hệ sinh thái hỗ trợ hội nhập.
VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank giành hai giải thưởng “Top 10 Báo cáo Thường niên tốt nhất – Nhóm ngành Tài chính” và “Giải Ba Báo cáo Phát triển Bền vững – Nhóm ngành Tài chính” tại VLCA 2025. Đây là minh chứng cho nỗ lực không ngừng của VPBank trong việc nâng tầm quản trị doanh nghiệp, minh bạch thông tin và thực hành ESG, đồng thời khẳng định uy tín quốc tế, vị thế tiên phong và cam kết tạo giá trị bền vững cho cổ đông, khách hàng và cộng đồng.
Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Chuẩn bị tâm thế, tiềm lực và chiến lược từ sớm, từ xa, nên khi bước vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, T&T Group nhanh chóng nổi lên như một “ông lớn” với loạt dự án tầm quốc gia, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, góp sức cùng Chính phủ thực hiện thành công cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Với riêng Nhà Sáng lập, Chủ tịch Điều hành Đỗ Quang Hiển, làm năng lượng sạch không phải xin dự án chỉ để kiếm lợi nhuận. Lớn hơn, đó còn là khát vọng làm ra những giá trị bền vững cho xã hội, công đồng, đất nước.
Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Việt Nam đang hướng tới trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 dựa vào năng lực đổi mới sáng tạo và sức mạnh của nền kinh tế số. Trong bối cảnh đó, tài sản vô hình, từ quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bí quyết công nghệ đến dữ liệu và phần mềm chính là “mỏ vàng” của thời đại mới.
Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Việt Nam đang đối mặt với bài toán kép: vừa phải kéo giảm chi phí logistics vốn đang ở mức cao hàng đầu khu vực, vừa phải đáp ứng các tiêu chuẩn xanh hóa ngày càng ngặt nghèo từ các thị trường xuất khẩu chủ lực. Trong bối cảnh đó, phát triển logistics xanh không chỉ là xu thế mang tính tất yếu, mà đang trở thành lời giải khả thi nhất để hóa giải cùng lúc hai áp lực lớn.
[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

Theo quy định tại Nghị định số 293/2025/NĐ-CP, từ 1/1/2026 mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động tăng từ 250.000 đồng - 350.000 đồng/tháng so với quy định tại Nghị định 74/2024/NĐ-CP.