Căng nhất là giá
Ông chủ xưởng may hơn 500 công nhân Trần Xuân Đ. nghĩ nát óc trước khi đặt bút ký vào bản hợp đồng gia công mới cho một đối tác trong nước có nguồn hàng xuất khẩu đi Mỹ, thời gian giao hàng trong quý IV/2013. Nguồn hàng dệt may đến thời điểm này không phải là quá khó kiếm, nhưng điều kiện ngặt nghèo hơn là xu thế chung.
Với bản hợp đồng lần này, ông Đ. phải chịu chi phí vận chuyển đến kho của đối tác, mà xăng lại vừa tăng giá mấy lần, chưa kể điện có thể sẽ tăng trong thời gian tới, lương công nhân chắc cũng phải tính toán để nới hơn..., ông Đ. cay đắng chấp nhận làm không công để giữ mối hàng. “Tôi không làm cũng có người khác nhận mối hàng này”, ông Đ. nói.
Không ít DN phải chấp nhận giá bán thấp để tồn tại
Cũng giống như tình cảnh của ông Đ., một công ty chuyên sản xuất xi măng ở Hải Phòng cũng đang phải chấp nhận cảnh “thua thiệt” trong kinh doanh. Do tiêu thụ xi măng trong nước khó khăn, DN này buộc phải liên kết với một DN nước ngoài để xuất khẩu sản phẩm sang châu Phi. Giá cả đương nhiên vẫn phải cạnh tranh trong khi chi phí vận chuyển cao hơn, DN này thậm chí còn chấp nhận bán trả chậm một phần đơn hàng, để tiếp tục duy trì được vòng quay sản xuất ở mức giảm sản lượng khoảng 40% so với công suất thiết kế. “Nhưng còn DN là còn cơ hội”, Phó tổng giám đốc của công ty giải thích cho quyết định của DN mình.
Nhưng những vấn đề như các DN kể trên đang phải đối đầu không phải là cá biệt. Trên bình diện cả nước, sản xuất đang cho thấy mẫu số chung về tăng chi phí đầu vào nhưng giảm giá bán đầu ra.
Chẳng hạn về chi phí đầu vào, chỉ số giá cước vận tải và kho bãi trong 6 tháng đầu năm 2013 đã tăng 7,63% so với cùng kỳ năm trước, theo Tổng cục Thống kê; chỉ số giá bán nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất tương ứng tăng 2,93%. Ngược lại, chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản lại giảm 2,52%; chỉ số giá bán sản phẩm người sản xuất hàng công nghiệp cũng giảm tương đương mức trên.
Đối với DN xuất khẩu có sử dụng các nguyên phụ liệu nhập khẩu, tình hình cũng cho thấy những bất lợi tương ứng. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa 6 tháng năm 2013 chỉ giảm 2,56% so với cùng kỳ, nhưng chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa tương ứng lại giảm tới 4,21%. Trong bối cảnh tỷ giá tương đối ổn định từ đầu năm đến nay, mức giảm giá xuất khẩu lớn hơn so với nhập khẩu tạo ra nhiều bất lợi hơn cho DN.
Nhìn trên số liệu sản xuất công nghiệp, những chuyển dịch bất lợi về giá như trên đang tác động mạnh đến hoạt động sản xuất. Chỉ số sản xuất công nghiệp của nhóm công nghiệp chế biến chế tạo trong 6 tháng đầu năm 2013 chỉ tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, mức khá thấp so với giai đoạn trước. Tăng trưởng về tiêu thụ khá hơn (chỉ số tiêu thụ ngành chế biến chế tạo 5 tháng năm 2013 tăng 7,5% so với cùng kỳ) cộng thêm sản xuất được điều tiết để giảm tồn kho (chỉ số tồn kho công nghiệp chế biến chế tạo tại thời điểm 1/6/2013 tăng 9,7% so với cùng thời điểm năm ngoái).
“Thực tế có một số loại sản phẩm tồn kho được tiêu thụ với giá rẻ, DN chấp nhận lợi nhuận thấp, thậm chí lỗ để giải phóng hàng tồn kho, thu hồi vốn đầu tư sang lĩnh vực khác”, Tổng cục Thống kê cho biết. Nhưng diễn biến khó khăn này cũng không chỉ có ở sản xuất công nghiệp.
Theo Tổng cục Thống kê, sản xuất nông nghiệp, thủy sản cũng gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm và nhất là chịu ảnh hưởng nhiều của dịch bệnh và thời tiết. Sản xuất kinh doanh trong nước đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, tuy đã có cải thiện, nhưng sức mua thấp dẫn đến tiêu thụ hàng tồn kho chậm.
Nhiều DN cho biết, ngay cả trong điều kiện tiêu thụ được hàng hóa thì họ cũng vẫn phải thận trọng với sản xuất mới. Bởi quan ngại về triển vọng kinh tế là nguyên nhân chính khiến DN vẫn tiết giảm sản xuất. Tổng cục Thống kê cho biết, dù sản xuất công nghiệp đã có biểu hiện phục hồi, nhưng mức độ tăng trưởng cải thiện rất ít so với giai đoạn trì trệ cuối năm 2012 và đầu năm 2013. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến vòng quay sản xuất và tiêu dùng, mà quan trọng hơn là do thu nhập ít được cải thiện trong xã hội, khiến lực cầu mới khó hình thành để trở thành động lực thúc đẩy sản xuất ở giai đoạn sau.
Ngược lại ở phía DN, bất lợi về giá như hiện nay sẽ khiến cho lợi nhuận thu về giảm sút. Trong điều kiện quy mô DN Việt Nam có đến hơn 97% là nhỏ và vừa, tích lũy kém đi sẽ đẩy đến một vấn đề nghiêm trọng hơn đối với nền kinh tế, khi triển vọng phát triển quy mô trong tương lai đối với nhiều DN là khá mờ nhạt. Với các cam kết tự do hóa thương mại đang được triển khai, sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn từ phía nước ngoài. Vì vậy, những DN đang chấp nhận tồn tại ở giai đoạn này, chắc rằng sẽ còn phải chịu các sức ép cạnh tranh lớn hơn trong giai đoạn tới.
Anh Quân