Cấp bách mở rộng vốn phòng chống thiên tai
Trên 850 triệu USD thiệt hại mỗi năm
Trong báo cáo “Tăng cường Khả năng Chống chịu khu vực ven biển” vừa được công bố nửa cuối tháng 10 vừa qua, WB nhận định rằng trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế Việt Nam chịu thiệt hại rất lớn từ các thảm họa tự nhiên.
Cụ thể, hiện Việt Nam có khoảng 12 triệu người và 35% nhà ở tại các tỉnh ven biển luôn thường xuyên chịu tác động tiêu cực từ các đợt bão lũ. Trung bình mỗi năm có khoảng 852 triệu USD (tương đương 0,5% GDP) và 316.000 việc làm trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt bị ảnh hưởng do lũ lụt, sạt lở đất ven sông và ven biển. Trong đó, ngành kinh tế nông nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nhất với khoảng 1,5 triệu nông dân luôn thường xuyên chịu tác động. Ngành thủy sản và ngành du lịch biển cũng là các ngành luôn chịu thiệt hại nặng nề.
Đến hiện nay cơ chế thu hút vốn tư nhân vào các dự án phòng chống thiên tai vẫn chưa cụ thể |
Ngoài tác động trực tiếp đến hàng triệu nông dân và các ngành kinh tế, theo WB, ngập lụt thường xuyên cũng ảnh hưởng nghiêm trọng tới 26% số bệnh viện công và trạm xá tại các tỉnh, thành ven biển. Hơn 1/3 lưới điện nông thôn và khoảng 11% các trường học cũng luôn bị đe dọa hư hỏng, đứt gãy.
Thực tế, theo Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống thiên tai, chỉ tính riêng từ đầu năm 2020 đến nay (chưa thống kê thiệt hại của các cơn bão lớn như số 5, số 8 và số 9 gần đây – PV), cả nước đã có 248 trận dông, lốc và mưa lớn, 13 trận lũ quét, sạt lở đất; 68 trận động đất. Đến nửa cuối tháng 9/2020 ước tính thiệt hại về kinh tế do thiên tai gây ra trong năm 2020 đã vượt mức 5.000 tỷ đồng, chưa tính thiệt hại về người.
Phía WB nhận định rằng, với những diễn biến ngày càng khốc liệt của thiên tai và biến đổi khí hậu, hiện nay Việt Nam cần gấp rút đặt ra các chiến lược tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trong hoàn cảnh mới. Bởi “nếu chậm triển khai các hoạt động thêm 10 năm thì nền kinh tế Việt Nam sẽ phải chịu thiệt hại thêm 4,3 tỷ USD do thiên tai. Và đến năm 2030 biến đổi khí hậu có thể đẩy hơn 1,2 triệu người vào tình cảnh nghèo đói” - WB dự báo.
Nguồn vốn vẫn thiếu và dàn trải
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2016-2020, ngoài nguồn vốn bố trí cho các dự án đa mục tiêu thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia (trong đó có mục tiêu phòng chống thiên tai) thì tổng ngân sách Trung ương bố trí cho các dự án phòng chống thiên tai trên địa bàn cả nước ước khoảng 113.000 tỷ đồng.
Số tiền này được phân bổ cho các chương trình chính. Bao gồm: chương trình tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp (11.000 tỷ đồng); chương trình phát triển kinh tế thủy sản bền vững (4.350 tỷ đồng); chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững (3.589 tỷ đồng); chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh (9.500 tỷ đồng); chương trình chống hạn và xâm nhập mặn vùng Nam Trung bộ và ĐBSCL (5.000 tỷ đồng);… Ngoài ra, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn vay ODA và nguồn vốn dự phòng Trung ương cũng phân bổ khoảng 65.400 tỷ đồng cho các dự án thủy lợi lớn và dành khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm để khắc phục khẩn cấp hậu quả thiên tai tại các địa phương.
Mặc dù nguồn ngân sách được tập trung khá mạnh cho lĩnh vực phòng chống thiên tai như kể trên, tuy nhiên theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiện nay suất đầu tư cho các dự án vẫn quá mỏng, nhiều dự án không bố trí đủ vốn nên thi công dở dang và chưa phát huy hiệu quả đầu tư. Đặc biệt, cho đến hiện nay, cơ chế huy động nguồn lực tư nhân vào các công trình phòng chống thiên tai vẫn chưa được xây dựng và hoàn thiện. Vì vậy hầu hết các công trình, dự án đều chỉ trông chờ vào ngân sách.
Một vấn đề khác cũng được các địa phương phản ánh là hiện nay ở cấp độ các tỉnh, thành phố nhiều nơi đã thành lập Quỹ Phòng chống thiên tai nhưng ở cấp độ Trung ương lại chưa có Quỹ này. Nguyên nhân là do Nghị định 83/2019 của Chính phủ quy định Quỹ Phòng chống thiên tai là quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách được thành lập ở cấp tỉnh, do UBND cấp tỉnh quản lý. Do chưa có quỹ cấp quốc gia nên chưa thể điều tiết nguồn lực hỗ trợ cho các tỉnh khó khăn thường xuyên xảy ra thiên tai, lũ lụt.
Để gia tăng nguồn lực vốn cho hoạt động phòng chống thiên tai, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng các địa phương cần khuyến khích cho các DN, tổ chức kinh tế thực hiện đầu tư xây dựng các công trình sạt lở theo hình thức đối tác công tư (PPP). Từ đó, tạo ra các hỗ trợ về thuế, kết hợp các ưu đãi khác về tín dụng, bảo hiểm và ưu tiên giải ngân nguồn lực ngân sách cho các dự án hợp tác này.
Ở góc độ vĩ mô, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ cần xây dựng gấp cơ chế hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư và giao đất, mặt nước theo hướng có điều kiện tại vùng ven sông, ven biển cho các tổ chức, cá nhân có nguồn lực đủ mạnh để đầu tư các công trình phù hợp nhằm chủ động phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, giảm gánh nặng đối với ngân sách nhà nước. Trong khi đó, WB cho rằng trong những năm tới, Việt Nam cần đưa ra một kế hoạch hành động cụ thể đối với lĩnh vực phòng chống thiên tai. Theo đó, nguồn lực cần tập trung vào một số hoạt động cụ thể, bao gồm: xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thiên tai có thể truy cập công khai và hệ thống quản lý tài sản đối với các cơ sở hạ tầng quan trọng. Bên cạnh đó, phân bổ nguồn vốn để tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ công bằng cách nâng cấp các công trình này tại những khu vực dễ bị ảnh hưởng nhất và ít được bảo vệ.