Chứng khoán Việt sẽ ra sao khi dòng tiền toàn cầu thận trọng?
Ông Nguyễn Kỳ Minh, Kinh tế trưởng Công ty Cổ phần Chứng khoán Guotai Junan Việt Nam (IVS) |
Dòng tiền thận trọng hơn
Mặc dù lạm phát toàn cầu đã có dấu hiệu giảm và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cũng tuyên bố sẽ giảm dần lãi suất, giới đầu tư toàn cầu dường như vẫn chưa thực sự lạc quan về triển vọng của các thị trường chứng khoán.
Ông Nguyễn Kỳ Minh, Kinh tế trưởng Công ty Cổ phần Chứng khoán Guotai Junan Việt Nam (IVS) nhận định rằng, trong ngắn hạn, áp lực tài chính có phần giảm bớt nhưng rủi ro dài hạn lại có xu hướng gia tăng. Cụ thể, dù Fed dự kiến sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất, nhưng tốc độ giảm có thể chậm hơn so với kỳ vọng của thị trường.
"Tuần trước, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã phát biểu rằng cơ quan này sẽ không vội vã cắt giảm lãi suất. Xác suất Fed không cắt giảm lãi suất trong tháng 12 đã tăng mạnh từ 20% lên gần 50%, điều này cho thấy sự thận trọng trong chính sách của Fed", ông Minh giải thích.
Thêm vào đó, căng thẳng địa chính trị toàn cầu gia tăng đã khiến các thị trường chứng khoán thế giới giảm điểm. Tại Mỹ, việc ông Trump chính thức đắc cử và những chính sách có thể làm tăng lạm phát mạnh mẽ đã làm lợi suất trái phiếu dài hạn kỳ hạn 10 năm tăng vọt, đạt mức gần 4,5%, cao nhất kể từ năm 2006, trước giai đoạn Đại suy thoái.
Trong bối cảnh trung hạn, với những biến động khó lường, giới đầu tư toàn cầu có xu hướng thận trọng hơn. Dù có một số chuyển biến tích cực trong ngắn hạn, họ vẫn hạn chế giải ngân vào các thị trường cận biên và thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, ông Minh vẫn lạc quan về triển vọng của thị trường Việt Nam, cho rằng nếu nền kinh tế chính trị của Việt Nam duy trì được sự ổn định, các nhà đầu tư sẽ sớm quay lại.
Thực tế, tỷ giá USD so với các đồng tiền khác vẫn duy trì mức mạnh và các nhà đầu tư toàn cầu đang lo ngại rằng lạm phát sẽ khó giảm nhanh, khiến cho lãi suất khó có thể giảm theo. Do đó, dòng tiền toàn cầu có khả năng tiếp tục duy trì xu hướng đầu tư vào các tài sản an toàn.
Ông Nguyễn Kỳ Minh chỉ ra rằng, nhiều nhà đầu tư ngoại đang lo ngại về sự gia tăng rủi ro biến động và xu hướng phân cực trong các nền kinh tế lớn, dẫn đến việc họ tìm đến các tài sản an toàn như vàng và USD, làm đồng USD tăng giá mạnh. Các nhà đầu tư hiện cũng đang chờ đợi thêm thông tin về tình hình chính trị tại Mỹ, đặc biệt là khi ông Trump chính thức nhậm chức, để có thể đánh giá đầy đủ các yếu tố bất định mới.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng ông Trump hiện nay không còn ở vị thế như 8 năm trước. Mặc dù ông vẫn giữ được sự quyết liệt, nhưng thế giới đã có nhiều năm nghiên cứu về ông, bao gồm cả 4 năm nhiệm kỳ tổng thống. Các ưu và nhược điểm của ông đã được phân tích kỹ càng, vì vậy có thể kỳ vọng sẽ ít biến động mạnh hơn trong nhiệm kỳ thứ hai của ông.
Việt Nam đang có nhiều yếu tố tích cực
Tại Việt Nam, hiện đang có nhiều yếu tố tích cực như lạm phát ở mức kiểm soát, lãi suất thấp hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tỷ giá vẫn đang giữ ở ngưỡng ổn định… Nhưng nhiều nhà đầu tư vẫn băn khoăn về các yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến thị trường.
Ông Nguyễn Kỳ Minh cho rằng, VN-Index sẽ quay lại mốc 1.300 điểm và về dài hạn có thể quay lại mốc 1.500 nếu vượt qua được các khó khăn, cụ thể là việc thiếu hụt dòng tiền thanh khoản.
Thực tế, VN-Index vào tháng 9 đã chạm lại mốc 1.300 điểm trước khi quay đầu và phần lớn thời gian dao động trong mức 1.200-1.300 điểm và vấn đề thanh khoản hiện giờ rõ ràng đang là yếu tố dẫn dắt thị trường nhưng thanh khoản chưa đủ mạnh.
Đối với nhà đầu tư ngoại, những gia tăng bất ổn toàn cầu, kỳ vọng lãi suất tăng theo lạm phát và thực tế lãi suất dài hạn phi rủi ro đã tăng mạnh làm họ gia tăng dịch chuyển vốn về các thị trường an toàn là điều dễ hiểu.
Còn đối với nhà đầu tư nội, có hiện tượng thiếu hụt dòng tiền khi tăng trưởng huy động vốn có phần chậm chạp so với tín dụng. Điều này phản ánh việc dòng tiền được điều hướng khỏi các kênh truyền thống, có thể là cho việc duy trì hoạt động kinh doanh hoặc mở rộng sản xuất khi kinh tế đang phục hồi trở lại.
Dù lý do là gì, thanh khoản trên các thị trường thứ cấp như thị trường chứng khoán cũng sẽ chịu ảnh hưởng ít nhiều. Và như vậy, cho đến khi thanh khoản được cải thiện, thị trường chứng khoán Việt Nam khó có thể bứt phá trong ngắn hạn.
Tuy nhiên về dài hạn, các yếu tố về tăng trưởng, lãi suất, lạm phát mới là yếu tố quan trọng.
“Như vậy tôi vẫn hoàn toàn tự tin về triển vọng thị trường Việt Nam trong 1-3 năm tới sẽ đạt lại và vượt qua các mốc cao trong quá khứ”, ông Minh cho biết.
Triển vọng thị trường chứng khoán sẽ ra sao?
Dự báo về bộ ba lãi suất, tỷ giá và lạm phát trên toàn cầu trong thời gian tới, ông Nguyễn Kỳ Minh cho rằng, đây là câu hỏi khó. Nhìn chung nếu quan sát thị trường thế giới, có thể thấy lạm phát nhiều khả năng sẽ gia tăng khi xu hướng các quốc gia gia tăng rào cản và bảo hộ thị trường trong nước của họ, cũng như có những hạn chế về lưu chuyển vốn, lưu chuyển nhân lực đến các nơi có chi phí thấp hơn.
Thực tế là lãi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ đã tăng mạnh lên mốc 4,3%-4,5%. Lãi suất ngắn hạn (Fed rate) của Mỹ gần đây có dấu hiệu đi sau thị trường. Lãi suất trái phiếu kho bạc 10 năm đã chạm đáy vào năm 2020 và tăng liên tục, cho thấy dấu hiệu của gia tăng lạm phát, nhưng phải mãi tới 2022 Fed mới vào cuộc để nâng lãi suất ngắn hạn nhằm kìm đà lạm phát.
Gần đây, đang có những dấu hiệu cho thấy lạm phát tại Mỹ có thể tăng trở lại, khi lãi suất trái phiếu dài hạn 10 năm đã bật tăng. Ngược lại, Fed lại giảm lãi suất trong 2 cuộc họp gần đây và có thể điều này sẽ khiến họ gặp một số khó khăn trong thời gian tới.
Nếu các quốc gia khác duy trì nới lỏng quá mức, nhiều khả năng USD vẫn sẽ tăng giá do lợi suất trái phiếu dài hạn tại Mỹ gia tăng khiến các nhà đầu tư và dòng tiền quay lại thị trường này. Và như đề cập là lãi suất dài hạn, có nghĩa là dòng tiền rời đi có thể sẽ mất nhiều thời gian để quay trở lại hơn.
Đánh giá những tác động của các yếu tố này đến Việt Nam trong bối cảnh thị trường chứng khoán tiến gần hơn với việc nâng hạng, ông Nguyễn Kỳ Minh cho rằng, Việt Nam vẫn là quốc gia sản xuất, chính sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ về tự chủ lương thực đã giúp chúng ta đứng vững qua Covid-19 và nhiều khả năng vẫn giúp ổn định lạm phát trong thời gian tới. Do lương thực, thực phẩm chiếm 30% rổ chỉ số giá tiêu dùng (CPI), đồng thời giá xăng dầu cũng trong xu thế ổn định giảm, lạm phát ở Việt Nam không phải vấn đề quá đáng lo.
Trong khi đó, tỷ giá và lãi suất là yếu tố đáng lo ngại hơn. Đối với tỷ giá, cho đến nay Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thành công trong việc điều phối thị trường, ổn định sức mạnh VND và chống đô la hóa, vàng hóa. Tuy nhiên, đang có những áp lực để có thể duy trì được thành công vừa qua. Cụ thể, dự trữ ngoại hối của chúng ta hiện nay ước tính khoảng 90 tỷ USD, mấp mé ngưỡng khuyến cáo của các tổ chức quốc tế là khoảng 3 tháng nhập khẩu.
“Như vậy, NHNN đang có ít dư địa hơn, dù tôi nghĩ vẫn không có khó khăn quá lớn trong vài năm tới”, ông Minh nhận định.
Ngoài ra, áp lực nhiều hơn lên tỷ giá đi kèm với lợi suất dài hạn của các thị trường phát triển và được coi là “safe haven” như Mỹ ở mức cao có thể gây áp lực lên chính sách tiền tệ và lãi suất của Việt Nam. Để duy trì ổn định cả tỷ giá và lãi suất ở mức phù hợp, hỗ trợ cho nền kinh tế như thời gian qua sẽ là nhiệm vụ nhiều thách thức hơn đối với NHNN.
“Nhìn chung, triển vọng Việt Nam vẫn tích cực do các chính sách thúc đẩy tăng trưởng và giải ngân đầu tư công đang được triển khai mạnh mẽ gần đây. Dự kiến dòng tiền có thể được cởi trói khi vòng quay tiền tăng tốc, được bổ trợ bởi dòng tiền mồi từ đầu tư công. Bên cạnh đó các nhà đầu tư quốc tế cũng có thể trở lại Việt Nam khi các chính sách của ông Trump được công bố vào đầu năm sau. Dự kiến VN-Index có thể hướng tới các mốc 1.300-1.400 điểm trong nửa sau 2025”, ông Minh lưu ý thêm.