Chỉ số kinh tế:
Ngày 5/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.151 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.944/26.358 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Cơ sở nào để EVN điều chỉnh giá điện vào thời điểm này?

Linh Hương
Linh Hương  - 
Từ 11/10, giá bán lẻ điện bình quân đã tăng từ mức 2.006,79 đồng/kWh lên mức 2.103,1159 đồng/kWh (chưa bao gồm VAT), tương đương mức tăng 4,8%. Đây là lần điều chỉnh tăng giá thứ 3 kể từ năm 2023. Vậy cơ sở nào để Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) điều chỉnh giá điện vào thời điểm này?
aa

Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), để điều chỉnh giá điện tăng lần này, EVN dựa trên 3 cơ sở quan trọng: Chính trị, pháp lý và thực tiễn.

Cụ thể, về cơ sở chính trị, triển khai Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó có yêu cầu: “áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng” và “xoá bỏ mọi rào cản để bảo đảm giá năng lượng minh bạch, do thị trường quyết định”.

Về cơ sở pháp lý, theo EVN, việc điều chỉnh giá bán lẻ lần này được thực hiện theo Quyết định số 05/2024/QĐ-TTg ngày 26/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ Quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân. Điều 3 khoản 2 quyết định này quy định: Trong năm, giá bán điện bình quân được xem xét điều chỉnh trên cơ sở cập nhật chi phí khâu phát điện, chi phí mua điện từ các nhà máy điện cung cấp dịch vụ phụ trợ theo thông số đầu vào cơ bản trong khâu phát điện và các khoản chi phí khác chưa được tính vào giá điện.

Tại Điều 3 khoản 5 Quyết định quy định: Thời gian điều chỉnh giá bán điện bình quân tối thiểu là 3 tháng kể từ lần điều chỉnh giá điện gần nhất. Điều 5, khoản b cũng ghi rõ: Trường hợp giá bán điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 3% đến dưới 5% so với giá bán điện bình quân hiện hành, Tập đoàn Điện lực Việt Nam quyết định điều chỉnh tăng giá bán điện bình quân ở mức tương ứng.

Về cơ sở thực tiễn, theo EVN, giá thành sản xuất điện chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố đầu vào về sản lượng điện phát, giá than, dầu, khí, tỷ giá ngoại tệ… Đối với các yếu tố đầu vào nêu trên khi có biến động lớn sẽ tác động lớn đến giá thành khâu phát điện (chiếm 83% giá thành) cũng như giá thành điện thương phẩm.

Thứ nhất, cơ cấu nguồn biến động theo chiều hướng bất lợi các nguồn mua điện có giá thành rẻ giảm, các nguồn mua điện có giá thành đắt tăng so với năm 2022. Năm 2023, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và hiện tượng El Nino dẫn tới tình hình thủy văn không thuận lợi. Tỷ trọng nguồn điện năm 2023 diễn biến theo chiều hướng bất lợi: Các nguồn có giá mua rẻ là thủy điện giảm từ 38% xuống 30,5%, tỷ trọng các nguồn điện có giá mua đắt (nhiệt điện than) và giá mua rất đắt (nhiệt điện dầu) tăng từ 35,5% lên 43,8%.

Bên cạnh đó, nhu cầu phụ tải tăng cao qua các năm trong khi không có nhiều công trình nguồn điện mới giá rẻ vào vận hành. Tổng sản lượng điện mua, nhập khẩu tại điểm giao nhận tăng thêm 11,8 tỷ kWh so với năm 2022, tương ứng với mức tăng 4,6%. Để đáp ứng nhu cầu điện tăng cao trong khi các nguồn điện giá rẻ hiện hữu chỉ đáp ứng được một phần, EVN phải mua điện bổ sung từ các nguồn có giá thành sản xuất cao hơn nhiều so với giá bán lẻ điện, như các nguồn nhiệt điện sử dụng than nhập khẩu và nhiệt điện dầu.

Thứ hai, giá các loại nhiên liệu than, khí năm 2023 mặc dù giảm so với năm 2022 tuy nhiên vẫn ở mức cao so với giai đoạn các năm 2020-2021

Có thể thấy chỉ số giá than nhập năm 2023 có giảm so với 2022 nhưng vẫn ở mức cao so với bình quân năm 2020-2021 (tăng 73,64% với NewC và tăng 22,47% so với ICI3). Tương tự, các chỉ số khác như chỉ số giá dầu HFSO và giá dầu thô Brent đều cao hơn nhiều so với bình quân 2020-2021.

Thứ ba, giá than pha trộn của Tập đoàn Than - Khoáng sản (TKV) và Tổng công ty Đông Bắc cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện vẫn duy trì ở mức cao và có sự điều chỉnh việc sử dụng than pha trộn của các nhà máy nhiệt điện từ than rẻ hơn sang than có giá cao hơn. Theo đó, giá than pha trộn (giữa than nội và than nhập khẩu) năm 2023 của TKV và Tổng công ty Đông Bắc cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện tuy vẫn đang duy trì ở mức cao, cao hơn từ 29% đến 35% (tùy từng chủng loại than) so với giá than pha trộn áp dụng năm 2021 (giai đoạn trước khi giá than tăng đột biến trong các năm 2022-2023).

Bên cạnh đó, trong năm 2023, TKV đã chuyển phần lớn các nhà máy nhiệt điện (như Quảng Ninh 1 và 2, Phả Lại 1 và 2, Mông Dương 1, Duyên Hải 1...) sử dụng than x.10 sang than x.14 có giá cao hơn. Giá than x.14 cao hơn giá than x.10 từ khoảng 170.000 đồng/tấn đến 350.000 đồng/tấn, tùy thuộc theo từng loại than.

Thứ tư, tỷ giá ngoại tệ (USD) năm 2023 tăng mạnh so với năm 2022. Tỷ giá đô la Mỹ được tính bình quân theo ngày của tỷ giá đô la Mỹ bán ra giờ đóng cửa của Hội sở chính - Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, tỷ giá đô la Mỹ bình quân năm 2023 là 23.978,4 đồng/USD, tăng 448,5 đồng/USD so với tỷ giá đô la Mỹ bình quân năm 2022 (23.529,9 đồng/USD), tương ứng với tỷ lệ tăng 1,9%.

Tỷ giá tăng đã làm tăng chi phí mua điện từ các nguồn điện có giá mua theo hợp đồng bằng ngoại tệ (USD) hoặc giá mua nhiên liệu bằng ngoại tệ (USD) như các nhà máy nhiệt điện khí (cụm nhà máy điện Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2.1, Phú Mỹ 4, Phú Mỹ 2.2, Phú Mỹ 3, Nhơn Trạch 1 và 2, Bà Rịa, Cà Mau 1 và 2), nhiệt điện than sử dụng than nhập khẩu (cụm nhà máy điện Formosa Đồng Nai, Formosa Hà Tĩnh, Duyên Hải 3, Duyên Hải 3 MR, Vĩnh Tân 4 và 4MR, BOT Nghi Sơn 2, BOT Duyên Hải 2, BOT Vân Phong 1, Sông Hậu 1), nhập khẩu điện từ Lào và các nhà máy điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, sinh khối, rác).

Trước đó, ngày 10/10/2024, Bộ Công Thương đã công bố kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2023 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Theo đó, tổng chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2023 của EVN là 528.604,24 tỉ đồng, bao gồm chi phí sản xuất, kinh doanh điện của các khâu phát điện, truyền tải điện, phân phối - bán lẻ điện và phụ trợ - quản lý ngành.

Theo đó, chi phí đã tăng 35.338,94 tỷ đồng (tương ứng tăng 7,16%) so với năm 2022. Giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2023 là 2.088,90 đồng/kWh, tăng 2,79% so với năm 2022. Trong đó, các khoản thu của EVN và các đơn vị thành viên từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định và vật tư thu hồi, thu nhập từ hoạt động cho thuê cột điện đã được giảm trừ vào chi phí sản xuất, kinh doanh của EVN và các đơn vị thành viên.

Năm 2023, sản lượng điện thương phẩm thực hiện là 253,05 tỉ kWh, tăng 4,26% so với năm 2022. Doanh thu bán điện thương phẩm năm 2023 là 494.359,28 tỉ đồng, tăng 8,18% so với năm 2022. Giá bán điện thương phẩm bình quân thực hiện là 1.953,57 đồng/kWh, tăng 3,76% so với năm 2022.

Như vậy, hiện nay EVN đang bán lẻ điện dưới mức giá thành sản xuất kinh doanh là 135,33 đồng/kWh, tương đương với 6,92%.

Theo Bộ Công Thương, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh điện năm 2023 của EVN lỗ trên 34.244 tỉ đồng. Thu nhập từ các hoạt động có liên quan đến sản xuất kinh doanh điện trong năm 2023 là 12.423 tỉ đồng.

Tổng cộng hoạt động sản xuất kinh doanh điện năm 2023 và các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh điện năm 2023 của EVN (thu nhập từ hoạt động tài chính và từ tiền bán công suất phản kháng) lỗ 21.821,56 tỉ đồng (không tính tới thu nhập từ sản xuất khác).

Ngoài khoản lỗ trên, kết quả kiểm tra của đoàn kiểm tra liên ngành cũng cho hay các khoản chưa hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2023 khoảng 18.032 tỉ đồng. Đây chủ yếu là khoản chênh lệch tỉ giá được treo lại từ năm 2019 đến 2023 chưa phân bổ vào giá thành.

Linh Hương

Tin liên quan

Tin khác

[Infographic] CPI tháng 11 tăng 0,45%, kinh tế tiêu dùng khởi sắc

[Infographic] CPI tháng 11 tăng 0,45%, kinh tế tiêu dùng khởi sắc

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 tăng 0,45% so với tháng trước, chủ yếu do giá thực phẩm và dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng tại các địa phương chịu ảnh hưởng mưa lũ, cùng với chi phí đầu vào và giá nhiên liệu đi lên. So với tháng 12/2024, CPI tháng 11 tăng 3,28% và tăng 3,58% so với cùng kỳ. Bình quân 11 tháng năm 2025, CPI tăng 3,29%, trong khi lạm phát cơ bản giữ ở mức 3,21%.
Thị trường hàng hóa: Lực mua áp đảo kéo chỉ số MXV-Index sát 2.400 điểm

Thị trường hàng hóa: Lực mua áp đảo kéo chỉ số MXV-Index sát 2.400 điểm

Sắc xanh tiếp tục duy trì trên thị trường hàng hóa nguyên liệu thế giới trong phiên giao dịch ngày hôm qua (4/12). Tâm điểm của thị trường đổ dồn về hai mặt hàng cà-phê và dầu thô khi giá những mặt hàng này đồng loạt tăng mạnh. Đóng cửa, chỉ số MXV-Index tăng gần 0,2% lên mức 2.382 điểm.
Sáng 5/12: Giá vàng thế giới giảm nhẹ

Sáng 5/12: Giá vàng thế giới giảm nhẹ

Tính đến 8h30 sáng nay (5/12), giá vàng giao ngay giảm 7,845 USD, giao dịch ở 4.200,920 USD/oz; giá vàng tương lai tháng 2 giảm 12,05 USD xuống 4.230,95 USD/oz.
[Infographic] Giá xăng tăng, dầu giảm

[Infographic] Giá xăng tăng, dầu giảm

Giá xăng trong nước tăng trở lại từ 15h hôm nay với RON 95-III lên 20.460 đồng/lít và E5 RON 92 đạt 19.820 đồng. Ngược chiều, các mặt hàng dầu đồng loạt giảm 50–580 đồng mỗi lít, kg sau chu kỳ điều chỉnh của liên Bộ Công Thương – Tài chính.
Chủ động bình ổn thị trường, đảm bảo nguồn cung hàng hóa dịp Tết 2026

Chủ động bình ổn thị trường, đảm bảo nguồn cung hàng hóa dịp Tết 2026

Cuối năm, đặc biệt là dịp Tết sắp tới, nhu cầu mua sắm hàng hóa của người dân gia tăng. Trước tình hình này, Bộ Công Thương đã yêu cầu các Sở theo dõi sát diễn biến thị trường, chủ động dự trữ hàng hoá phục vụ người dân và ngăn chặn đầu cơ, găm hàng.
Thị trường hàng hóa: Kim loại kéo MXV-Index đi lên

Thị trường hàng hóa: Kim loại kéo MXV-Index đi lên

Lực mua - bán tiếp tục giằng co trên thị trường hàng hóa thế giới trong phiên 3/12. Tuy nhiên, lực mua áp đảo ở nhóm kim loại đã đảo chiều xu hướng, kéo MXV-Index tăng gần 0,4% lên 2.377 điểm khi đóng cửa. Trái lại, thị trường đường vẫn chịu sức ép khi nguồn cung dồi dào từ Ấn Độ và Brazil tiếp tục đè nặng lên giá.
Sáng 4/12: Giá vàng được hỗ trợ vững chắc giữa nhiều bất ổn

Sáng 4/12: Giá vàng được hỗ trợ vững chắc giữa nhiều bất ổn

Tính đến 8h15 sáng nay (4/12), giá vàng giao ngay tăng 10,250 USD, giao dịch ở 4.213,650 USD/oz; giá vàng tương lai tháng 2 tăng 11,85 USD lên 4.244,35 USD/oz.
Phí chồng phí, người bán hàng online chật vật xoay xở

Phí chồng phí, người bán hàng online chật vật xoay xở

Ngay trước mùa cao điểm mua sắm cuối năm, các nhà bán hàng Việt lại lao đao khi các sàn thương mại điện tử như Shopee, TikTok Shop tiếp tục điều chỉnh phí. Chi phí đội lên, lợi nhuận ngày càng mỏng, người bán nhỏ lẻ đang chật vật tìm cách xoay xở để tồn tại.
Thị trường hàng hóa: Năng lượng đỏ lửa, cao su chưa thoát đáy

Thị trường hàng hóa: Năng lượng đỏ lửa, cao su chưa thoát đáy

Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV) cho biết trong phiên giao dịch ngày hôm qua (2/12), lực bán mạnh chi phối thị trường kéo chỉ số MXV-Index giảm hơn 0,6% xuống mức 2.368 điểm.
Sáng 3/12: Giá vàng thế giới đảo chiều tăng nhẹ

Sáng 3/12: Giá vàng thế giới đảo chiều tăng nhẹ

Tính đến 8h30 sáng nay (3/12), giá vàng giao ngay tăng 10,205 USD, giao dịch ở 4.215,870 USD/oz; giá vàng tương lai tháng 2 tăng 25,90 USD lên 4.246,70 USD/oz.