Đầu tư toàn cầu nghiêng về các nước đang phát triển
Chi phối đầu tư toàn cầu
Chỉ khoảng 17 năm nữa, kể từ bây giờ, già nửa vốn đầu tư toàn cầu với tổng giá trị khoảng 158 nghìn tỷ USD (quy đổi theo năm 2010) sẽ tập trung tại các nước đang phát triển, so với mức chưa đến 1/3 hiện nay. Trong đó các nước Đông Á và Mỹ Latin sẽ chiếm lượng vốn lớn nhất.
Đây là dự báo vừa được đưa ra trong báo cáo “Tầm nhìn Phát triển Toàn cầu" (GDH) của Ngân hàng Thế giới (WB). Báo cáo này phân tích và dự báo xu hướng các cấu phần về đầu tư, tiết kiệm và dòng vốn trong 2 thập kỷ tới.
Các nước đang phát triển dự kiến sẽ chiếm khoảng 3/5 tổng lượng vốn đầu tư toàn cầu, tăng mạnh từ mức 1/5 trong năm 2000. Với dân số thế giới sẽ tăng lên khoảng 8,5 tỷ người vào năm 2030 và tình trạng dân số già hóa nhanh chóng ở các nước phát triển, những thay đổi lớn về nhân khẩu học sẽ có tác động lớn đến những thay đổi về mặt cấu trúc này.
Các nước đang phát triển đóng vai trò ngày càng quan trọng
“GDH là một trong những dự báo tốt nhất về tương lai dựa trên những nguồn thông tin phân tích tin cậy”, Kaushik Basu - Phó Chủ tịch kiêm Kinh tế gia trưởng của WB chia sẻ và cho biết thêm: “Trong khoảng thời gian chưa đến 2 thập kỷ nữa, đầu tư toàn cầu sẽ do các nước đang phát triển chi phối. Trong số các nước này, Trung Quốc và Ấn Độ được kỳ vọng sẽ là những nhà đầu tư lớn nhất. Tổng đầu tư của 2 nước này có thể chiếm tới khoảng 38% đầu tư toàn cầu vào năm 2030. Nếu những dự báo này trở thành hiện thực sẽ thay đổi bức tranh của kinh tế toàn cầu”.
Tại các nước đang phát triển, năng suất lao động tăng vọt, hội nhập vào các thị trường toàn cầu ngày càng mạnh mẽ, các chính sách kinh tế vĩ mô hiệu quả trong khi các lĩnh vực như y tế và giáo dục có những cải thiện đang thúc đẩy tăng trưởng cũng như tạo ra các cơ hội đầu tư rộng lớn. Đây cũng là lý do vì sao trọng tâm kinh tế đang dần chuyển dịch sang các nước đang phát triển.
Một nhân tố giúp thúc đẩy nữa là cơ cấu dân số trẻ. Ước tính từ nay đến năm 2030, các nước đang phát triển sẽ có mức tăng dân số thêm khoảng 1,4 tỷ người. Điều này hàm nghĩa là lợi thế nhân khẩu học vẫn chưa đạt đến đỉnh điểm đối với các nước này, nhất là tại các khu vực có dân số rất trẻ như châu Phi Cận Sahara và Nam Á.
Một phần nhờ tiết kiệm gia tăng
Tin tốt là không giống như trong quá khứ, các nước đang phát triển dường như sẽ có đủ các nguồn lực cần thiết để phục vụ cho các dự án đầu tư rộng lớn cho cơ sở hạ tầng và dịch vụ trong tương lai. Tỷ lệ tiết kiệm tại các nước này kỳ vọng sẽ đạt tới 34% GDP trong năm 2014 và sau đó sẽ đạt trung bình khoảng 32% GDP hàng năm đến năm 2030. Về tổng thể, các nước đang phát triển sẽ chiếm khoảng 62 - 64% tổng tiết kiệm toàn cầu, tức vào khoảng 25 – 27 nghìn tỷ USD vào năm 2030, tăng gần 20% so với mức 45% của năm 2010.
“Mặc dù mức tiết kiệm cao như vậy có thể giúp các nước đang phát triển đáp ứng nhu cầu đầu tư trong tương lai, nhưng họ cũng cần phải cải thiện đáng kể mức độ tham gia vào các thị trường tài chính toàn cầu nếu muốn tận dụng tối đa được các chuyển dịch đang diễn ra”, Hans Timmer - Giám đốc Nhóm Triển vọng Phát triển của WB nhận định.
GDH xây dựng 2 kịch bản dựa trên tốc độ hội tụ giữa các nước phát triển và đang phát triển về thu nhập bình quân đầu người và mức độ chuyển đổi cấu trúc (như phát triển tài chính và các cải thiện về chất lượng thể chế) tại hai nhóm nước này.
Kịch bản 1 cho rằng sẽ có sự hội tụ dần dần giữa 2 nhóm; trong khi kịch bản 2 xây dựng viễn cảnh cho một sự hội tụ mạnh mẽ. Dự báo mức tăng trưởng GDP trung bình toàn cầu là 2,6%/năm cho kịch bản 1; và 3% cho kịch bản 2 trong 2 thập kỷ tới. Trong đó, các nước đang phát triển có mức tăng trưởng trung bình 4,8% trong kịch bản 1; và 5,5% trong kịch bản 2.
Trong cả 2 kịch bản, nhân lực làm việc trong ngành dịch vụ tại các nước đang phát triển đều chiếm hơn 60% trong tổng số việc làm của các nước này đến năm 2030. Các nước đang phát triển cũng chiếm khoảng trên 50% thương mại toàn cầu. Sự chuyển dịch này xảy ra đồng thời với quá trình thay đổi nhân khẩu học và khiến nhu cầu gia tăng về hạ tầng cơ sở dịch vụ. Cụ thể hơn, WB dự báo, hạ tầng cơ sở tại các nước đang phát triển sẽ cần cung ứng một lượng vốn khoảng 14,6 nghìn tỷ USD từ nay đến năm 2030.
Báo cáo cũng chỉ ra sự già hóa dân số tại Đông Á, Trung Á, Đông Âu hay các nước phát triển khác sẽ khiến cho tỷ lệ tiết kiệm giảm sút lớn. Thay đổi nhân khẩu học sẽ là phép thử đối với sự ổn định của tài chính công và các thách thức chính sách ở các quốc gia này, nhất là những thách thức trong nỗ lực để giảm bớt gánh nặng chăm sóc y tế và lương hưu mà không phải áp đặt những biện pháp hà khắc đối với người có tuổi.
Theo WB, vào năm 2030, Trung Quốc sẽ là quốc gia có mức tiết kiệm lớn nhất trên thế giới và đạt khoảng 9 nghìn tỷ USD (quy đổi theo năm 2010). Đứng thứ 2 là Ấn Độ với 1,7 nghìn tỷ USD. Hai quốc gia này có thể vượt Mỹ và Nhật Bản vào giai đoạn sau năm 2020.
“GDH cho thấy những tín hiệu rõ ràng về sự gia tăng nhanh chóng vai trò của các nước đang phát triển trong nền kinh tế toàn cầu. Đây là vấn đề rất có ý nghĩa vì nó cho thấy sự thịnh vượng ngày càng được phân phối đồng đều hơn cho các quốc gia. Tuy nhiên, ngay cả khi thực tế đúng như vậy thì điều này không có nghĩa là trong phạm vi mỗi quốc gia, tất cả mọi người sẽ đều được hưởng lợi”, Maurizio Bussolo - tác giả chính của báo cáo này nhìn nhận.
Theo đó, những tầng lớp có trình độ học vấn thấp trong xã hội sẽ không hoặc tiết kiệm được rất ít. Điều này hàm ý họ sẽ không có khả năng cải thiện được thu nhập của mình, đặc biệt đối với những người nghèo nhất sẽ khó có cơ hội thoát khỏi bẫy đói nghèo luôn treo trên đầu họ.
“Các nhà hoạch định chính sách tại các nước đang phát triển có vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy tiết kiệm cá nhân thông qua các chính sách hướng đến tăng cường nguồn nhân lực, nhất là cho tầng lớp nghèo”, Bussolo kết luận.
Đỗ Lê