Đi theo lời kêu gọi của Bác Hồ
Tháng Tám ở cố đô Huế
Cách mạng tháng Tám thành công, rất nhiều người trong hoàng tộc nhà Nguyễn đang “hưởng lộc” vương triều, sống trong giàu sang nhung lụa, vậy mà thoáng chốc, như có phép màu, họ từ bỏ tất cả để đi theo lời kêu gọi của Bác Hồ. Trong số đó, nhiều người tham gia trọn vẹn cả 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc với những đóng góp quan trọng cho cách mạng trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, văn hóa, xã hội.
…Thành phố Huế, bên phía bờ Nam sông Hương theo đường Lê Lợi rợp bóng cây xanh qua trường Đại học Sư phạm Huế (địa điểm Tòa Khâm sứ cũ), đi hết Đập Đá là đường Nguyễn Sinh Cung - nơi có ngôi nhà lưu niệm lúc tuổi thơ của Bác Hồ và cũng là tuyến đường khởi đầu thôn Vỹ, xưa kia tập trung khá nhiều phủ đệ dưới thời nhà Nguyễn. Để hồi ức theo những địa danh ấy, chúng tôi liên lạc với ông Vĩnh Mẫn, một trong số nhân chứng hiếm hoi, vẫn nhớ như in những ngày trung tuần tháng Tám năm 1945.
Hoàng thân Vĩnh Mẫn (bìa phải ngoài cùng) trong một lần ra thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp |
“Chiều 23/8/1945, hàng vạn người dân Thừa Thiên - Huế và các đội cứu quốc quân tiến về sân vận động Huế dưới rừng cờ đỏ sao vàng, hô vang khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Nước Việt Nam của người Việt Nam”... Khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân biến cuộc mít tinh của Chính phủ Trần Trọng Kim, mừng việc Nhật trao trả quyền cai trị Nam Kỳ cho triều đình nhà Nguyễn, thành cuộc mít tinh biểu dương lực lượng, giành chính quyền của ta. Tại đây, ông Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa đọc diễn văn và tuyên bố, từ nay chính quyền về tay nhân dân, đồng thời, giới thiệu ra mắt Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông Tôn Quang Phiệt, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời kêu gọi toàn dân đoàn kết xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân”, ông Vĩnh Mẫn năm nay đã 90 tuổi nhưng đôi mắt sáng rực, gương mặt tràn đầy hạnh phúc khi kể về khí thế những ngày mùa thu tháng Tám ở cố đô Huế 76 năm về trước.
Trong căn nhà bên dòng Hương thơ mộng, ông Vĩnh Mẫn nâng niu tập giấy tờ dày cộp luôn luôn được cất giữ cẩn thận. Ấy là các tài liệu và cả những kỷ vật trong cuộc đời hoạt động cách mạng của ông, bắt đầu từ cách mạng mùa thu năm 1945. Những gì trong quá khứ vẻ vang ấy là niềm tự hào lớn của ông. Bức tường trong phòng khách có treo Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng mà ông vinh dự được đón nhận đúng dịp kỷ niệm 128 năm sinh nhật Bác (19/5/2018), ông luôn ngắm mà nói như khoe mỗi khi có khách tới thăm: “Vĩnh Mẫn tôi - một hoàng thân nhà Nguyễn suốt đời đi theo con đường cách mạng của Bác Hồ, đã trọn việc nước, việc nhà”.
Trở thành chính ủy Trung đoàn Cửa Việt
Ông cụ thân sinh của ông là Bửu Trác (cháu nội vua Hiệp Hòa). Ông cụ từng giữ chức thống chế nhất phẩm triều đình, nhân vật thứ hai sau vua, quyền lực ngất trời, nhưng tính cương trực, ông cụ không chịu luồn cúi và chống Pháp theo cách riêng của mình. Vì thế, sau khi vua Khải Định băng hà, ông cụ bị Phủ Tôn Nhơn kết án, tước chức, tước tôn tịch, đày đi Lao Bảo 6 tháng, đến năm Bảo Đại thứ nhất (1926) được ân xá. Triều đình Huế chuẩn khôi phục nguyên tước Hương Công, mời trở lại làm, nhưng ông cụ từ chối… Không chỉ chống Pháp, mà quan trọng hơn, ông cụ còn luôn dạy dỗ các con về nhân - nghĩa - lễ - trí - tín, giáo dục tư tưởng yêu nước, chống Pháp. Ông cụ có 6 người con thì có 3 người đi theo Việt Minh là Vĩnh Tập, Băng Tâm và Vĩnh Mẫn. Đó là sự hy hữu của một gia đình hoàng tộc...
Di tích Phu Văn Lâu (Huế) |
Cách mạng tháng Tám thành công, Vĩnh Tập mới 19 tuổi đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản, chính trị viên Trung đội 9, Cảm tử quân; Vĩnh Mẫn 15 tuổi tham gia đội trinh sát thiếu niên Trung đoàn Việt Minh Trần Cao Vân. Đêm 19/12/1946, thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân Thừa Thiên - Huế đồng loạt nổ súng, tiến hành bao vây quân Pháp trú đóng phía Nam sông Hương. Trận chiến ác liệt năm ấy, anh Vĩnh Tập và 16 cán bộ, chiến sĩ Trung đội 9 cảm tử quân đã anh dũng hy sinh, vùi thân trong lòng đất quê hương…
Từ đây, chàng trai Vĩnh Mẫn được tổ chức đổi tên thành Phan Thắng và theo học rồi giữ lại làm cán bộ huấn luyện tại Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn. Đến cuối năm 1954, ông tập kết ra Bắc và được điều về làm trợ lý giáo dục cho đồng chí Tô Ký, Tư lệnh kiêm Chính ủy Sư đoàn 338 Nam bộ. Sau đó, được cử đi học bổ túc trường chính trị rồi cử về miền Nam nhận nhiệm vụ bằng tàu không số. Nhưng trên đường đi do bị lộ, con tàu phải quay lại miền Bắc, Phan Thắng được Tổng cục Chính trị điều luôn về làm Trưởng ban Tuyên huấn Đoàn tàu không số làm nhiệm vụ đặc biệt, bí mật vận chuyển vũ khí bằng đường biển vào chiến trường miền Nam. Năm 1973, Phan Thắng là Chính ủy Trung đoàn Cửa Việt - tên một đơn vị trong lực lượng “Đường Hồ Chí Minh” trên biển nổi tiếng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước với bao chiến công hiển hách. Đất nước thống nhất, ông chuyển ngành về quê hương và được phân công làm Trưởng ban Hợp tác kinh tế - văn hóa của tỉnh Bình Trị Thiên cho đến lúc nghỉ hưu.
Những năm qua, ông Vĩnh Mẫn lại bôn ba kết nối để có được tổ chức Hội truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển. Năm 2000, khi đã tuổi “xưa nay hiếm”, ông vẫn lặn lội tàu xe ra Hải Phòng, vào Sài Gòn, xuống miền Tây Nam bộ để bàn bạc thống nhất giữa các nhóm vận tải biển ở đồng bằng sông Cửu Long, giữa các cụm bến của D962, D371 để bàn về cách thức tổ chức Hội truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển. Ông bảo, lập ra hội để gắn kết anh em cựu chiến binh tàu không số cả nước lại với nhau. Đây cũng là cách để giáo dục truyền thống cho con cháu, khi biết rằng trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, có một đoàn tàu không số gan góc dũng cảm đến vậy.
Ông Vĩnh Mẫn chia sẻ: Không ít quốc gia mà cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến đã triệt hạ vua, cầm tù, đày đọa các quý tộc dòng họ nhà vua. Thật hiếm và cũng thật đáng suy nghĩ về sự bao dung của Bác Hồ đã thu phục, cảm hóa những gia đình hoàng tộc phong kiến cùng tham gia công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và cùng toàn dân góp sức xây dựng đất nước. Quả đúng như A.Ruscio nhà nghiên cứu lịch sử nước Pháp đã viết về Hồ Chí Minh, một “người Bônsêvích vàng” để nói về những ứng xử nhân đạo của Hồ Chí Minh, lãnh tụ của cách mạng Việt Nam. Để cứu nước thoát khỏi cảnh nô lệ, lầm than, từ trước đến sau, Bác Hồ đều chủ trương “Đại đoàn kết dân tộc” mọi giai tầng xã hội, mọi tôn giáo, dân tộc. Nhân sĩ, trí thức, cả những người dòng dõi hoàng tộc trước kia, khi đã hiểu được vận mệnh Tổ quốc, thấy được âm mưu của kẻ thù, trách nhiệm của người dân, lại được biết Chính phủ cách mạng ra lời kêu gọi, là họ đi theo Bác Hồ, đi kháng chiến…