Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi): Có nên giảm tỉ lệ đóng?
Theo đó, các hiệp hội đại diện cho nhiều doanh nghiệp trong các ngành hàng chủ lực của Việt Nam, đang sử dụng hàng triệu lao động, đã đưa ra ý kiến đối với vấn đề tỷ lệ đóng và tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc (nền đóng). Tại nội dung dự thảo do Bộ lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất có quy định tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động và người sử dụng lao động có hợp đồng lao động vẫn giữ như Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Điều này có nghĩa là người lao động đóng 8% (Điều 39) và người sử dụng lao động đóng 17% (Điều 40) vào quỹ hưu trí và tử tuất.
Tuy nhiên, các Hiệp hội đều cho rằng đây là tỷ lệ đóng cao so với khu vực và thế giới, cụ thể Malysisa đóng 13%, Philippin 10%, Indonesia 8%, Thái Lan 5%, Myanma 2%... Về nền đóng, theo Điều 37 dự thảo đưa ra 2 phương án về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Đối với phương án 1, tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động (giữ như Luật Bảo hiểm xã hội 2014). Còn phương án 2, tiền lương tháng bao gồm mức lương thực tế và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.
Đại diện các hiệp hội là các Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký đồng thời cũng là người đứng đầu nhiều doanh nghiệp lớn trong các ngành nghề cho rằng, nếu sử dụng cách tính của phương án 1 tuy có giảm bớt áp lực cho người lao động và người sử dụng lao động từ tỷ lệ đóng cao, nhưng do nền đóng phụ thuộc vào kết quả thỏa thuận của người sử dụng lao động và người lao động của từng doanh nghiệp nên sẽ làm mất đi tính đồng bộ của chính sách, làm mất cân đối giữa các doanh nghiệp, khoảng cách thu nhập của người lao động khi đi làm và về hưu ở nhiều doanh nghiệp sẽ có sự khác biệt rất lớn.
Còn đối với phương án 2, cơ bản đóng trên lương thực tế trừ 1 số khoản theo quy định của pháp luật thì với tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội như hiện nay và trong dự thảo thì doanh nghiệp không chịu đựng được, giảm khả năng cạnh tranh và người lao động sẽ giảm thu nhập. Vì vậy, đại diện của các hiệp hội ngành nghề thống nhất đề xuất tỉ lệ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tính theo phương án 1, có nghĩa là sẽ đưa tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động và người sử dụng lao động về mức đóng của năm 2009, tức là người lao động đóng 5% và người sử dụng lao động đóng 15%, tổng cộng 20%, chứ không phải 25% hiện nay.
“Khi Quốc hội thông qua và áp dụng cần mang tính khoa học và phù hợp thực tế, thu nhập nhiều đóng nhiều và thu nhập ít thì đóng ít. Nếu bắt buộc lựa chọn theo phương án 2 thì phải giảm tiếp tỷ lệ đóng xuống so với phương án 1. Nghĩa là người lao động đóng 4% và người sử dụng lao động đóng 12%, tổng cộng 16%, nhưng nền đóng sẽ dựa trên thu nhập thực tế, trừ một số khoản không có tính chất lương. Như vậy, nền đóng đã chiếm tới khoảng 90% tiền lương thực tế của người lao động, lựa chọn 1 trong 2 phương án trên sẽ khắc phục được bất cập của tỷ lệ đóng và nền đóng của Luật Bảo hiểm xã hội 2014, nguồn thu bảo hiểm xã hội sẽ không giảm, thu nhập khi đi làm và lương hưu của người lao động không chênh lệch quá lớn, không còn yếu tố chủ quan nên sẽ cân đối giữa các doanh nghiệp hơn”, đại diện các hiệp hội nêu ý kiến.
Một Phó Tổng Giám đốc doanh nghiệp ngành dệt may tại Khu chế xuất Tân Thuận (Quận 7, TP.HCM) cho biết, hiện doanh nghiệp đang sử dụng hàng trăm lao động, tiền bảo hiểm xã hội mà doanh nghiệp phải đóng cho người lao động là rất lớn. Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, dịch bệnh, đơn hàng xuất khẩu sụt giảm nghiêm trọng, doanh nghiệp phải “gồng mình” trả chi phí lãi vay, lo lương duy trì việc làm cho người lao động. Nếu tiền bảo hiểm xã hội và những khoản chi phí khác tiếp tục tăng trong giai đoạn này thì doanh nghiệp sẽ không thể trụ vững được. Vì vậy, các bộ, ngành, Chính phủ cần xem xét đến các yếu tố mang tính thời điểm, thực tiễn để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay.
Hơn nữa, thực tế thời gian qua để “níu chân” người lao động, phần lớn các doanh nghiệp đều chi trả tiền lương thưởng ở mức cao để người lao động yên tâm gắn bó, sản xuất. Vì vậy, nếu theo cách tính bảo hiểm xã hội căn theo mức lương thực tế, cộng với các khoản lương thưởng, phụ cấp thì doanh nghiệp sẽ gồng gánh không nổi, thậm chí sẽ xảy ra tình trạng nợ quá hạn, hoặc trốn đóng bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động, về lâu dài tạo ra hệ lụy không tốt cho xã hội.
Bàn về vấn đề này chuyên gia về lĩnh vực bảo hiểm, tiền lương phân tích, theo quy định hiện hành tại Nghị định 115/2015/NĐ-CP, hướng dẫn khoản 2 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về lao động ghi trong hợp đồng lao động. Như vậy, nếu theo đề xuất phương án 1 thì mức lương đóng bảo hiểm xã hội vẫn được giữ nguyên như hiện nay là các khoản được xác định trong hợp đồng lao động.
Tuy nhiên, phương án 2 có sự khác biệt khi nêu đây là các khoản tiền được tính đóng bao gồm cả khoản xác định được trước trong hợp đồng lao động lẫn biến động trong quá trình làm việc và điều này sẽ khiến mức đóng bảo hiểm xã hội của người lao động sẽ tăng lên so với hiện nay, đồng nghĩa với mức lương hưu thực tế của người lao động sau này cũng sẽ tăng lên. Mặt khác, thời gian tham gia bảo hiểm xã hội cũng được điều chỉnh rút ngắn để hưởng lương hưu từ 20 năm xuống còn 15 năm.
“Chính vì vấn đề liên quan “sát sườn” tới quyền lợi của cả doanh nghiệp và người lao động, nên cơ quan quản lý nhà nước phải tìm được phương án, giải pháp phù hợp nhằm giải quyết bài toán một cách hiệu quả, nhất là trong bối cảnh thị trường và nền kinh tế trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn, quy định này có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp và người lao động tìm cách trốn đóng bảo hiểm xã hội, khiến chính sách khó đạt được mục tiêu kỳ vọng và ảnh hưởng tiêu cực đến độ bao phủ của bảo hiểm xã hội nói riêng và chính sách an sinh xã hội nói chung. Vì vậy, trước khi bấm nút thông qua, Quốc hội nên cân nhắc và đề xuất gia tăng các hình thức thanh kiểm tra, quản trị dựa trên dữ liệu, liên kết giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu thuế, bảo hiểm xã hội, kết hợp chế tài nghiêm minh, song vẫn phải tạo thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh và người lao động yên tâm làm việc”, chuyên gia khuyến cáo.