Dự thảo ngân sách Anh - “Cơn ác mộng” trước Giáng Sinh

06:07 | 16/11/2022

Bất chấp việc hàng triệu người dân Anh đang phải trải qua cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt trong một nền kinh tế đối mặt với suy thoái, Chính phủ Anh vẫn quyết định sẽ tăng thuế vào ngày 17/11 tới.

du thao ngan sach anh con ac mong truoc giang sinh
Người dân mua sắm tại siêu thị ở London, Anh. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Anh sẽ tăng thuế vào ngày 17/11 tới và cắt giảm chi tiêu công trong ngân sách chính phủ, báo hiệu sự trở lại của chính sách “thắt lưng buộc bụng”, dù hàng triệu người dân nước này đang phải trải qua cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt trong một nền kinh tế đối mặt với suy thoái.

Thủ tướng Anh Rishi Sunak, người mới nhậm chức ba tuần trước, đã tuyên bố sẽ khắc phục "sự tàn phá kinh tế" do các chính sách của người tiền nhiệm Liz Truss gây ra.

Tuy nhiên, ông Sunak đặc biệt lưu tâm đến các vấn đề gồm chi phí năng lượng tăng chóng mặt, lạm phát cao hàng thập kỷ và lãi suất tăng cao đang siết chặt chi tiêu của các hộ gia đình.

Cũng trong ngày 17/11 tới, Bộ trưởng Tài chính Anh Jeremy Hunt sẽ trình bày bản dự thảo ngân sách trước Quốc hội, bên cạnh các dự báo kinh tế và lạm phát chính thức, giữa bối cảnh các dữ liệu gần đây đều báo hiệu một triển vọng ảm đạm.

Dự kiến Bộ trưởng Hunt sẽ công bố chương trình củng cố tài chính có tổng trị giá 50-60 tỷ bảng (từ 58,7-70,5 tỷ USD).

Ông Hunt nói với giới truyền thông: “Tôi e rằng tất cả chúng ta sẽ phải đóng thuế nhiều hơn. Chính phủ yêu cầu mỗi người dân hy sinh một chút.”

Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng “nỗi đau” hiện tại sẽ không tác động quá mạnh tới những người giàu có.

Một thông tin khác ảm đạm hơn là nền kinh tế Anh suy giảm trong quý 3/2022, khi lạm phát tăng cao. Điều này có khả năng đẩy nước này rơi vào suy thoái.

Ngân hàng trung ương Anh (BoE) dự báo nền kinh tế sẽ tiếp tục suy giảm trong quý 4/2022 và tình trạng suy thoái có thể kéo dài đến giữa năm 2024.

Nhà phân tích Ashley Webb của Capital Economics lưu ý: “Việc thắt chặt tài khóa quy mô lớn diễn ra ngay khi suy thoái kinh tế bắt đầu. Rủi ro rõ ràng là việc củng cố tài chính sẽ làm trầm trọng thêm suy thoái kinh tế”.

Ngân sách cắt giảm thuế không được tài trợ của cựu Thủ tướng Liz Truss đã gây ra sự sụp đổ của đồng bảng Anh và chi phí đi vay của nước này tăng mạnh trong nhiệm kỳ 49 ngày của bà bắt đầu vào tháng 9/2022.

Các nhà đầu tư lo lắng về một khoản thâm hụt lên tới 200 tỷ bảng Anh, buộc Ngân hàng trung ương Anh phải can thiệp khẩn cấp.

Sau đó, bà sa thải Bộ trưởng Tài chính Kwasi Kwarteng và thay thế bằng Bộ trưởng Jeremy Hunt, người bắt đầu đảo ngược kế hoạch ngân sách bị chỉ trích và giảm dần việc “đóng băng” hóa đơn nhiên liệu trong nước gây tốn kém. Tuy nhiên, điều đó không đủ để giữ bà Truss ở lại số 10 Phố Downing.

Kể từ đó, thị trường đã lấy lại đà tăng trưởng đều sau khi ông Sunak nắm quyền lãnh đạo và tình trạng hỗn loạn chính trị lắng xuống, nhưng lãi suất thế chấp của các ngân hàng vẫn tăng cao.

Ông Sunak nói với Sky News ở Bali, Indonesia, nơi ông đang tham dự Hội nghị thượng đỉnh G20: “Những gì chúng ta đang thấy bây giờ là sự ổn định đã trở lại với Vương quốc Anh. Nhưng đó là bởi vì kỳ vọng Chính phủ sẽ đưa ra những quyết định khó khăn cần thiết để đảm bảo rằng nước Anh có thể kiểm soát được lạm phát, giảm chi phí sinh hoạt cho người dân, đồng thời hạn chế sự gia tăng lãi suất thế chấp”.

Bức tranh kinh tế Anh có thể trở nên u tối hơn nữa trong tuần này, với dữ liệu thất nghiệp và lạm phát sẽ được công bố lần lượt vào ngày 15-16/11 (giờ địa phương).

BoE trong tháng này đã thực hiện đợt tăng lãi suất lớn nhất kể từ năm 1989 để đối phó với lạm phát hiện ở mức cao nhất trong 4 thập kỷ qua (trên 10%), khi giá năng lượng và thực phẩm tăng cao do ảnh hưởng bởi cuộc xung đột tại Ukraine.

Công đảng đối lập đã chỉ trích ông Sunak, cho rằng làn sóng “thắt lưng buộc bụng” lần thứ hai không phải là giải pháp cho tình hình hiện tại.

Rachel Reeves, phát ngôn viên tài chính của Labour, cho biết: “Tôi không tin rằng chính sách thắt lưng buộc bụng phiên bản 2.0, sau chính sách thắt lưng buộc bụng mà nước Anh đã trải qua trong 12 năm qua, là cách tiếp cận đúng đắn”.

Ông Reeves, cựu chuyên gia kinh tế của BoE, nói thêm rằng khu vực dịch vụ công đang chịu tổn thương, gọi đó là một “tín hiệu đáng xấu hổ” khi các y tá cảm thấy buộc phải đình công.

Hàng chục nghìn nhân viên trong các ngành công nghiệp khác nhau cũng đã đình công trên khắp nước Anh trong năm nay để yêu cầu được trả lương cao hơn.

Nguồn: TTXVN

Thông tin chứng khoán

Cập nhật ảnh...
Nguồn : stockbiz.vn
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,50
5,60
5,70
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,50
5,60
5,70
7,50
7,70
7,90
8,30
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,70
7,70
7,70
7,70
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,50
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
6,00
6,00
6,00
8,55
8,60
8,65
9,20
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.390 23.760 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.440 23.740 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.385 23.745 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.390 23.750 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.360 23.740 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.350 23.900 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.400 23.785 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.413 23.758 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.390 24.010 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.450 23.780 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)

Giá vàng Xem chi tiết

Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
66.750
67.470
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
66.750
67.450
Vàng SJC 5c
66.750
67.470
Vàng nhẫn 9999
54.800
55.800
Vàng nữ trang 9999
54.600
55.400