Giảm phát thải: Không thể thiếu vai trò của doanh nghiệp
Giảm phát thải, yêu cầu bắt buộc
Tại Việt Nam, nguồn gây ra phát thải khí nhà kính lớn nhất là từ lĩnh vực năng lượng; nông nghiệp; giao thông vận tải và công nghiệp chế biến, chế tạo. Theo một báo cáo đánh giá của WB, phát thải khí nhà kính tăng cao không chỉ làm tăng ô nhiễm không khí, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe người dân trong nước và năng suất lao động mà còn ảnh hưởng đến những nguồn lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam như xuất khẩu, khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài… qua đó làm giảm năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngày càng có nhiều công ty đa quốc gia (bao gồm một số công ty hoạt động tại Việt Nam) và người tiêu dùng tại những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam đang chuyển hướng sang nền kinh tế carbon thấp.
Ví dụ, một trong số thị trường nhập khẩu hàng hóa chính của Việt Nam là EU đang cân nhắc đánh thuế carbon (theo Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - CBAM). Theo đó, dự kiến từ năm 2026, hàng hóa nhập khẩu vào EU sẽ bị đánh thuế tương ứng với lượng khí CO2 phát thải trong quá trình sản xuất. Cơ chế này ban đầu sẽ áp dụng với các mặt hàng như xi măng, sắt thép, nhôm, sản phẩm điện tử… và có thể được mở rộng bao gồm cả việc phát thải “gián tiếp” như nguồn khí CO2 phát sinh từ việc sử dụng điện than trong sản xuất hàng hóa.
Báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam của WB |
“Để duy trì khả năng cạnh tranh, Việt Nam cần khử (giảm phát thải) carbon trong lĩnh vực năng lượng và thực hiện các hành động trong lĩnh vực nông nghiệp, giao thông và công nghiệp chế biến, chế tạo. Khử carbon ở đây đề cập đến các chính sách đang được thực hiện để giảm thiểu biến đổi khí hậu như được chỉ rõ trong Thỏa thuận Paris”, báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam của WB cho biết. Cũng theo ước tính của báo cáo này, tổng nhu cầu vốn để thực hiện được lộ trình khử carbon cho giai đoạn 2022 - 2040 sẽ lên tới 114 tỷ USD. Trong đó chủ yếu để hỗ trợ quá trình chuyển dịch sang năng lượng tái tạo (cần khoảng 64 tỷ USD); một phần dành cho công nghiệp, giao thông và nông nghiệp (khoảng 17 tỷ USD) và các chương trình hỗ trợ xã hội (33 tỷ USD).
Chiến lược và các chính sách hướng đến giảm phát thải của Việt Nam đã có, điển hình như: Luật Bảo vệ môi trường (có hiệu lực từ 1/1/2022) trong đó có Điều 91 về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, Điều 92 về bảo vệ tầng ozone, Điều 139 về tổ chức và phát triển thị trường các-bon; Cam kết về phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 mà Thủ tướng Chính phủ đưa ra tại Hội nghị COP26 ở Glasgow, Anh năm 2021… và được cụ thể hóa tại Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 về quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone; Thông tư 01/2022/TT-BTNMT quy định chi tiết thi hành Luật Bảo vệ môi trường… Điều đó cho thấy, các hành lang pháp lý, cơ chế chính sách, công cụ và động lực để giảm phát thải khí nhà kính đã có, quan trọng tới đây là triển khai thực hiện thế nào cho hiệu quả.
Không thể thiếu vai trò doanh nghiệp
Theo các chuyên gia, lộ trình thực hiện tăng trưởng xanh, chống biến đổi khí hậu và mục tiêu giảm phát thải về “0” năm 2050 mà Chính phủ đã cam kết sẽ không thể thiếu vai trò và đóng góp của khu vực tư nhân, cộng đồng DN. Nhưng để phát huy vai trò này, bên cạnh các chính sách, hướng dẫn và hỗ trợ từ các cơ quan quản lý để DN nắm bắt, chuyển đổi và tuân thủ thì bản thân DN cần thấy đây chính là lợi ích và con đường phát triển tất yếu, là cánh cửa để hàng hóa, dịch vụ mà họ làm ra tiếp cận các thị trường quốc tế ngày càng khó tính, đòi hỏi khắt khe hơn về môi trường và các điều kiện phát thải.
Ông Nguyễn Tiến Huy, Giám đốc Văn phòng DN vì sự phát triển bền vững, VCCI, cho rằng, để giảm phát thải khí nhà kính, trong ngắn hạn DN sẽ phải dành ra một khoản đầu tư chuyển đổi sang sản xuất xanh hơn nhưng lợi ích mang lại về lâu dài sẽ lớn hơn, bởi đây chính là công cụ để DN có thể tiếp cận các thị trường ngày càng khó tính. Cũng theo ông Huy, do các chính sách liên quan, như Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn mới có hiệu lực nên cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn để các DN hiểu, từ đó triển khai và tận dụng được các cơ hội. Bên cạnh đó về khía cạnh kỹ thuật, các bộ, ngành cần tiếp tục xây dựng các công cụ hướng dẫn chi tiết để DN tham gia vào quá trình này.
Theo ông Nguyễn Quang Huy, Trưởng phòng đảm nhiệm giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone của Cục biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT), tới đây sẽ có hoạt động để hỗ trợ kỹ thuật từ các bộ, ngành, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến đo đạc, báo cáo và thẩm định theo các cơ chế chúng ta đã xây dựng trong nước cũng như cơ chế quốc tế về thị trường carbon để các DN có thể tham gia một cách cụ thể hơn.
Vị này cho biết, khó khăn lớn nhất hiện nay là làm thế nào để những nỗ lực về giảm phát thải khí nhà kính của các DN được công nhận thông qua cơ chế tín chỉ carbon trong nước và quốc tế. “Đặc biệt là thị trường quốc tế đòi hỏi phải có xác nhận tín chỉ carbon một cách chính thức, đáp ứng được theo quy trình, phương pháp mà quốc tế công nhận. Việc này đòi hỏi phải có hướng dẫn kỹ thuật cũng như nguồn nhân lực về kỹ thuật để chúng ta có thể thực hiện được”, ông Nguyễn Quang Huy nói và cho biết cơ quan này đang xây dựng để tiến tới ban hành hướng dẫn kỹ thuật cụ thể cũng như xây dựng chương trình phổ biến kiến thức, nâng cao năng lực cho các khối DN về vấn đề này. “Mục tiêu giảm phát thải về “0” năm 2050 là không dễ nhưng tôi tin rằng, với sự tham gia, vào cuộc của tất cả các bên, đặc biệt là cộng đồng DN thì có thể thực hiện được”, ông Huy nói.