Hơn 3,3 triệu ha rừng và đất rừng chưa có chủ
Ngày 20/3, tại Hà Nội, Hội Chủ rừng Việt Nam (VIFORA) phối hợp với Trung tâm Giáo dục và Phát triển (CED) tổ chức tọa đàm “Giải pháp quản lý và sử dụng 3,3 triệu ha rừng chưa giao do UBND xã quản lý”.
Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy, hiện cả nước có hơn 3,3 triệu ha đất rừng và rừng chưa có chủ đang được Nhà nước tạm giao cho UBND cấp xã quản lý. Đây chủ yếu là rừng nghèo, nghèo kiệt hoặc chưa có rừng, đến nay chưa được sử dụng có hiệu quả.
Những diện tích này ở vùng sâu, vùng xa, nhiều diện tích đang để hoang hóa hoặc đang sử dụng vào các mục đích khác không theo quy hoạch. Nhiều nơi bị lấn chiếm, một số nơi có xung đột, tranh chấp.
Nhìn chung, công tác quản lý nhà nước như thống kê, xác định ranh giới, căm mốc, kiểm kê, kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện tốt. Hầu hết các địa phương chưa có phương án hoặc không có kế hoạch sử dụng đối tượng rừng và đất rừng này.
"Đây là một dư địa có tiềm năng lớn cho phát triển lâm nghiệp nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc nói chung. Quản lý, sử dụng diện tích này cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, đòi hỏi một nguồn lực đầu tư lớn", ông Hứa Đức Nhị - Chủ tịch Hội Chủ rừng Việt Nam (VIFORA) chia sẻ.
Việt Nam hiện chưa có một quy định rõ ràng và cụ thể về loại đất rừng do xã quản lý; nhiệm vụ, trách nhiệm của UBND cấp xã chưa thật rõ ràng. Rừng được giao cho người hay tổ chức quản lý sử dụng trên sổ sách và thực địa, có ranh giới rõ ràng.
"Hiện nay chúng ta chưa có một đánh giá đầy đủ về hiện trạng rừng, về hiệu quả quản lý bảo vệ rừng trên diện tích đất rừng đang do UBND các xã tạm thời quản lý", ông Nhị cho hay.
Theo ông Quang Văn Minh - Chủ tịch UBND xã Chiềng Pấc, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, xã Chiềng Pấc có 74 ha đất, trong đó rừng chiếm 1/3 diện tích và đã giao một phần cho các bản quản lý. Tuy nhiên, khi triển khai phát sinh các vấn đề khó khăn vì không thể đo lường cụ thể, không có căn cứ pháp lý khiến các bản có diện tích rừng được giao xâm lấn lẫn nhau.
Một số chủ rừng chưa quan tâm sát sao đến việc thăm nom, bảo vệ, chăm sóc, vẫn còn mặc định đây là rừng của chung. Đặc biệt, thù lao chỉ hơn 500 nghìn cho mỗi ha/năm nên các nông hộ thiếu động lực để chăm sóc rừng.
Theo ông Lê Thành Dương - Đại diện Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam, một trong những khó khăn trong việc giao, cho thuê đất rừng cho cộng đồng, người dân là do còn nhiều bất cập về vị trí pháp lý, quyền lợi, quyền sở hữu, trách nhiệm của cộng đồng như một chủ rừng thực sự.
"Cần phải rà soát, đo đạc, giải quyết quyền lợi của người dân có đất sử dụng hợp pháp, theo quy định của Luật Đất đai hiện do UBND xã quản lý. Trong đó, xác định diện tích, hiện trạng, chủ sử dụng, nguồn gốc đất và đề xuất hướng giải quyết (giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tổ chức quản lý theo hướng đồng hưởng lợi)", ông Dương lưu ý.
Pháp luật về đất đai và rừng của chúng ta được xây dựng theo hướng Nhà nước giao đất giao rừng, Nhà nước cấp quyền sử dụng đất rừng theo đề nghị của tổ chức, hộ gia đình cá nhân theo những điều kiện thủ tục hồ sơ đầy đủ.
Trong khi đất rừng đó vốn đã do người dân hay tổ chức quản lý lâu nay (thậm chí cả trăm năm nay) nhưng chủ đất rừng đó lại chưa có tên trong hồ sơ sổ sách và diện tích đất rừng đó về mặt pháp lý vẫn do Nhà nước quản lý. Với diện tích đất rừng do xã quản lý như vậy cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước không quản lý được.
Theo ông Nhị, để xử lý được tính trạng này, đòi hỏi phải có một chủ trương kiên quyết hơn, sửa đổi cách thức cũng như thủ tục phù hợp hơn, theo đó không nên quá nặng nề về hồ sơ đo vẽ địa chính hay kiểm đếm cây rừng qúa chi tiết mà nhà nước vẫn có thể quản lý được thông qua việc quản lý rừng và lâm sản tại hiện trường, quản lý trực tiếp trên địa bàn bởi chính quyền cơ sở và cộng đồng thay vì cứ phải quản lý một cách quan liêu trên hồ sơ giấy tờ ở các cấp trên.
Rừng cần tiếp tục được giao cho các hộ gia đình, cá nhân và các cộng đồng dân cư hay xác lập đầy đủ hồ sơ về đất rừng cho các chủ thể hiện đang trực tiếp quản lý, sử dụng, không tranh chấp và cộng đồng xác nhận.
Ông Nhị cho rằng, cần giao rừng cho các cộng đồng thôn bản và quản lý rừng chung của xã như một cộng đồng xã, cần một khái niệm mới về cộng đồng xã trong quản lý sử dụng rừng. Bên cạnh đó, việc giao đất giao rừng theo một thủ tục phù hợp thực tế quản lý đất đai và quản lý rừng.
Việc quản lý đất và rừng không hẳn chỉ dựa vào sổ sách, vào bản đồ hay các con số mà phải dựa vào người dân, dựa vào cộng đồng, dựa vào thực tế biến động trên thực địa.
Theo PGS. TS. Nguyễn Bá Ngãi - Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Chủ rừng Việt Nam, để quản lý và sử dụng một cách hiệu quả trên 3,3 triệu ha rừng do UBND xã tạm quản lý hiện nay, cần thành lập tổ hợp tác cộng đồng quản lý rừng, sửa đổi, bổ sung một số quy định giao đất rừng và giao rừng cho cộng đồng dân cư. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số quy định về sử dụng rừng đặc dụng và hợp tác quản lý rừng.