Kết nối, xây dựng lòng tin để thúc đẩy hợp tác
Ông Takeo Nakajima |
Ông đánh giá thế nào về triển vọng kinh tế Việt Nam?
Nhìn vào triển vọng năm nay, tôi nghĩ rằng kinh tế Việt Nam đang có hai động lực lớn là xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Đối với xuất khẩu, hiện trên thế giới đang phát triển thành công nhiều loại vaccine ngừa Covid-19 và đã được tiêm chủng trên diện rộng. Do đó tôi hy vọng trong một khoảng thời gian không xa nữa, vaccine sẽ mang lại hiệu quả lớn và như vậy thì thị trường xuất khẩu của Việt Nam sẽ được cải thiện. Khi các thị trường bên ngoài được cải thiện thì động lực xuất khẩu hoàn toàn có thể đảm bảo được. Như trong báo cáo khảo sát mới đây của chúng tôi cho thấy, các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam đều được dự báo sẽ tăng trưởng tốt trong năm nay.
Về thị trường tiêu dùng nội địa, tôi cho rằng cũng sẽ phục hồi tốt trong năm nay. Tuy nhiên, sự phục hồi nhiều khả năng chưa thể về mức như trước đại dịch. Hơn nữa, bản thân thị trường nội địa của Việt Nam cũng phụ thuộc rất lớn vào bên ngoài, như phụ thuộc vào du lịch quốc tế và những hoạt động đi lại giữa các nước, như vậy lại phụ thuộc rất lớn vào diễn biến tình hình Covid-19.
Trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản, điểm đến Việt Nam thế nào thưa ông?
Việt Nam hiện đang là điểm đến được doanh nghiệp Nhật Bản rất quan tâm, bên cạnh các nước khác như Thái Lan. Theo khảo sát của chúng tôi, có tới 50% doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá cao lợi thế thị trường của Việt Nam; 46,8% doanh nghiệp đã có kế hoạch mở rộng kinh doanh tại Việt Nam trong 1 - 2 năm tới. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp cho biết có thể thu nhỏ, chuyển sang quốc gia khác chỉ chiếm 6,1%, là mức thấp trong khu vực.
Bên cạnh đó, vì các lý do như lo ngại sự lây lan của dịch Covid-19, nhu cầu thay đổi môi trường giao thương… nên về phương thức triển khai hoạt động kinh doanh, rất nhiều doanh nghiệp Nhật Bản cho biết sẽ xem xét lại đơn vị bán hàng, thay đổi đơn vị thu mua... và tỷ lệ doanh nghiệp lựa chọn Việt Nam rất cao.
Đặc biệt là hiện nay, do tác động của Covid-19 gây ra gián đoạn chuỗi cung ứng nên việc đưa các sản phẩm (phụ kiện, linh kiện) từ Nhật Bản hay Trung Quốc vào Việt Nam có nhiều trở ngại. Vì vậy nhu cầu tìm kiếm nguồn cung tại chính Việt Nam và từ các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng lớn, mở ra tiềm năng tham gia hợp tác cho các doanh nghiệp Việt Nam thời gian tới. Nhưng khó khăn và thách thức đặt ra là các doanh nghiệp Việt Nam phải có khả năng đáp ứng được.
Để kết nối, các doanh nghiệp nội phải đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp Nhật |
Ông có thể lấy ví dụ cụ thể và hướng giải quyết khó khăn này thế nào?
Chúng ta đều biết rằng, các doanh nghiệp Nhật Bản nổi tiếng về đòi hỏi chất lượng rất cao. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam nghĩ rằng họ chỉ cần làm ra sản phẩm để đáp ứng được đủ đặt hàng của các doanh nghiệp Nhật Bản là xong, nhưng như thế chưa đủ. Về phía các doanh nghiệp Nhật Bản, họ yêu cầu ví dụ một năm phải sản xuất được 1 triệu các linh kiện với cùng một chất lượng như nhau và đến thời điểm xác định phải giao hàng đầy đủ. Và khi đã giao hàng rồi nhưng nếu có những sản phẩm bị lỗi thì phải có khả năng ngay lập tức có sản phẩm thay thế, hoặc phải bảo trì, bảo dưỡng được ngay lập tức.
Để theo được yêu cầu đó thì nhiều doanh nghiệp Việt Nam ở thời điểm hiện tại chưa đáp ứng được. Để giải quyết tôi nghĩ rằng có rất nhiều việc phải làm. Trong đó, có một thực tế là hiện nay các doanh nghiệp Nhật Bản chưa biết nhiều về các doanh nghiệp Việt Nam, nói đúng hơn là chưa có độ tin cậy với các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy mà việc kết nối doanh nghiệp hai bên, tổ chức các sự kiện, các hoạt động giao thương để doanh nghiệp hai bên tìm hiểu về nhau, từ đó xây dựng được lòng tin, sự tin cậy là rất quan trọng.
Việt Nam đã đầu tư nhiều về cơ sở hạ tầng (CSHT). Nhưng theo ông đã đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư chưa?
Liên quan đến những tồn tại về CSHT có ảnh hưởng đến các lĩnh vực, đặc biệt là ngành sản xuất chế tạo thì có lẽ đến nay cũng không còn nhiều lắm. Ví dụ về CSHT điện thì theo khảo sát vừa qua của chúng tôi, chỉ có khoảng 7,6% phản ánh còn trở ngại, cho thấy đây là mức thấp, không cản trở gì nhiều. Hay vấn đề giao thông chưa hoàn thiện, như đường xá bị ngập lụt thì vẫn còn nhưng cũng không phải là vấn đề lớn như trước đây.
Vấn đề CSHT ở những khu vực đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh cũng không còn phải là trở ngại lớn nữa. Nhưng riêng trong lĩnh vực chế biến chế tạo thì đôi khi các DN vẫn có ý kiến về việc điện áp bị thay đổi. Ngoài ra xét về vùng miền, CSHT ở khu vực miền Trung vẫn còn yếu và cần tập trung phát triển.
Còn các vấn đề liên quan đến môi trường pháp lý, thủ tục hành chính thì sao?
Về cơ bản cũng không có vấn đề gì lớn nhưng thực tế giữa các văn bản, quy định đâu đó vẫn còn sự chồng chéo, gây khó hiểu cho các nhà đầu tư. Thậm chí có những trường hợp khi xảy ra những mâu thuẫn đã nhìn thấy rõ giữa hai văn bản được ban hành nhưng để giải quyết mâu thuẫn này thì cũng đã mất rất nhiều thời gian để có thể giải quyết được.
Hay khi một luật đã được ban hành nhưng các nghị định, quy định hướng dẫn triển khai thực hiện rất chậm, dẫn đến nhiều trở ngại. Ví dụ như Luật PPP sửa đổi và ban hành mới đây, đến nay nghị định hướng dẫn thực thi luật này vẫn chưa có, dẫn đến việc dù nhiều DN hiện nay muốn được tham gia theo cơ chế PPP nhưng họ không biết phải làm thế nào, như có được hưởng theo cơ chế bảo lãnh Chính phủ hay không… thì đó là trở ngại rất lớn cho các nhà đầu tư. Nên tôi muốn lưu ý một vấn đề là khi ban hành luật hoặc sửa đổi luật thì cũng cần nhanh chóng ban hành nghị định hướng dẫn thực thi và văn bản hướng dẫn cần đảm bảo tính đồng bộ, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các nghị định hướng dẫn với nhau và với luật. Điều đó là rất quan trọng.
Xin cảm ơn ông!