Khí tự nhiên lao dốc 19%, giá hàng hóa thế giới giảm mạnh

08:07 | 13/03/2023

Thông tin từ Sở giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV), thị trường hàng hóa vừa đóng cửa tuần giao dịch biến động rất mạnh. Lực bán hoàn toàn áp đảo trên cả 4 nhóm mặt hàng nguyên liệu đã kéo chỉ số MXV-Index chốt tuần giảm tới 3,79% xuống mức 2.293 điểm. Tuy nhiên, giá trị giao dịch toàn Sở trung bình đạt 3.800 tỷ đồng mỗi phiên, tiếp tục tăng gần 9% so với tuần trước đó.

khi tu nhien lao doc 19 gia hang hoa the gioi giam manh

Thị trường năng lượng “đỏ lửa”

Kết thúc tuần giao dịch ngày 6-12/3, giá khí tự nhiên lao dốc hơn 19% khi dự báo cho thấy thời tiết sẽ ôn hòa hơn và nhu cầu sưởi ấm thấp hơn. Đồng thời, EIA cũng cho biết dự trữ khí tự nhiên hiện cao hơn 19% so với mức trung bình 5 năm. Nguồn cung không đáng lo ngại trong khi nhu cầu tiêu thụ thấp hơn kỳ vọng là yếu tố khiến giá khí tự nhiên giảm.

Cùng với đó, lực bán chiếm ưu thế trên thị trường dầu thô khi bài toán tăng lãi suất mạnh mẽ nhằm kiểm soát lạm phát của Mỹ “nóng” trở lại. Lo ngại tăng trưởng chậm kéo theo sự suy yếu trong bức tranh nhu cầu đã kéo giá dầu giảm, với dầu WTI giảm 3,77% xuống còn 76,68 USD/thùng và dầu Brent giảm 3,55% xuống 82,78 USD/thùng.

khi tu nhien lao doc 19 gia hang hoa the gioi giam manh

Sức ép bán xuất hiện ngay từ phiên đầu tuần khi các nhà chức trách Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ dầu thô lớn thứ 2 trên thế giới đưa ra mục tiêu tăng trưởng GDP là 5%, khiêm tốn hơn so với kỳ vọng của thị trường. Điều này đã làm mờ những kỳ vọng vào việc nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc tăng trưởng nhanh chóng và gây áp lực tới giá dầu.

Tâm điểm của tuần phải kể đến bài phát biểu của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong cuộc họp với Quốc hội Mỹ, khi cho biết lãi suất có thể sẽ tăng cao hơn so với dự kiến của các nhà hoạch định chính sách.

Tuy nhiên, dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ công bố vào cuối tuần đã xoa dịu một phần lo ngại này. Mặc dù số người có việc ngoài ngành nông nghiệp tăng thêm 311.000 người trong tháng 2, cao hơn dự báo ở mức 205.000 người, nhưng tiền lương đã tăng trưởng với tốc độ chậm lại và tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3,4% trong tháng 1 lên 3,6% trong tháng 2, cho thấy một vài áp lực nhất định. Điều này cải thiện tâm lý cho các nhà đầu tư khi họ cho rằng Fed sẽ chưa cần thiết quá mạnh tay vào thời điểm này.

Thêm vào đó, sự kiện Tập đoàn tài chính SVB phải đóng cửa do những rắc rối về thanh khoản, đánh dấu vụ phá sản ngân hàng lớn nhất ở Mỹ kể từ năm 2008 cũng thúc đẩy các ý tưởng về việc Fed sẽ hỗ trợ thị trường bằng cách tăng lãi suất chậm lại.

Hiện tại, công cụ theo dõi lãi suất của CME Group cho thấy có 87% ý kiến cho rằng 25 điểm cơ bản sẽ được bổ sung trong kỳ họp tới, gia tăng mạnh mẽ từ con số 60% 1 ngày trước. Các thông tin này đã kéo giá dầu phục hồi trong phiên cuối tuần.

Theo ông Phạm Quang Anh, Giám đốc Trung tâm Tin tức Hàng hóa Việt Nam: “Xu hướng phục hồi của giá dầu có thể sẽ tiếp tục được duy trì ít nhất là cho đến trước thời điểm ra báo cáo lạm phát tháng 2, một trong những dữ liệu sẽ tác động mạnh tới xu hướng giá”.

Cũng theo ông Phạm Quang Anh, trong tuần này, tâm điểm của thị trường sẽ hướng về dữ liệu lạm phát của Mỹ, cuộc họp lãi suất của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng như những diễn biến trên thị trường tài chính, đều là những yếu tố gây ảnh hưởng tới sức khoẻ các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Ngoài ra, báo cáo của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và Cơ quan Năng lượng Quốc tế Mỹ (IEA) cũng sẽ cung cấp góc nhìn cung cầu và tác động tới diễn biến giá.

Giá lúa mì “lao dốc” tuần thứ 4 liên tiếp

Đóng cửa tuần giao dịch 6-12/3, giá ngô ghi nhận mức giảm mạnh, tiếp nối xu hướng từ 2 tuần trước đó và tiến về sát hỗ trợ tâm lí 600 cents. Báo cáo cung - cầu tháng 3 được Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) công bố vào tối thứ 4 tuần trước đã cho thấy triển vọng nhu cầu ngô Mỹ được đánh giá kém hơn và từ đó tạo áp lực lên giá mặt hàng này.

Cụ thể, tồn kho ngô niên vụ 2022/2023 của Mỹ đã tăng mạnh thêm 75 triệu giạ lên mức 1,3 tỷ giạ, cao hơn mức dự đoán của thị trường. Sự chênh lệch này đến từ việc số liệu xuất khẩu bị cắt giảm do tốc độ bán hàng kém, sau khi Trung Quốc chấp nhận nhập khẩu ngô Brazil. Đây là yếu tố chính đang tạo sức ép lên giá ngay sau khi báo cáo được phát hành.

Ngược lại, tình trạng thiếu mưa ở Argentina vẫn tiếp tục gây ra thiệt hại đối với mùa vụ của nước này. USDA đã hạ dự báo sản lượng ngô niên vụ 2022/2023 của Argentina xuống còn chỉ 40 triệu tấn, giảm 7 triệu tấn so với báo cáo hồi tháng trước. Con số này không chỉ thấp hơn rất nhiều mà còn nằm ngoài khoảng dự đoán của thị trường.

Không những thế, Sở Giao dịch Ngũ cốc Rosario (BCR) còn mạnh tay cắt giảm dự báo sản lượng của Argentina xuống chỉ còn 27 triệu tấn. Những lo ngại về mùa vụ Nam Mỹ đã giúp giá ngô thu hẹp đà giảm trong phiên cuối tuần và duy trì trên mức 600. Trong tuần này, với dự báo thời tiết ở Argentina sẽ được cải thiện khi mưa lớn xuất hiện trong nửa cuối tháng 3, đà giảm của ngô có thể mở rộng và giá khả năng sẽ hướng xuống vùng 590.

khi tu nhien lao doc 19 gia hang hoa the gioi giam manh

Trong khi đó, giá lúa mì cũng lao dốc mạnh với tuần thứ 4 liên tiếp đóng cửa trong sắc đỏ. Các nước sản xuất lớn đều đón nhận những tín hiệu lạc quan về triển vọng mùa vụ chính là nguyên nhân lý giải cho việc giá suy yếu về mức thấp nhất trong vòng 18 tháng qua.

Theo báo cáo Bộ Nông nghiệp Nga vào ngày 3/3, hơn 93% diện tích lúa mì vụ đông đang ở trong tình trạng tốt và đạt yêu cầu. Điều kiện cây trồng tổng thể vẫn đang cao hơn trung bình 5 năm.

Tại Pháp, theo FranceAgriMer, tỷ lệ lúa mì đạt chất lượng tốt - tuyệt vời trong tuần trước giữ nguyên ở mức 95%, cao hơn so với mức 92% cùng kỳ năm ngoái. Những số liệu phản ánh triển vọng mùa vụ thuận lợi đã gây áp lực mạnh lên giá lúa mì.

Theo MXV, trong tuần này, giá có khả năng sẽ tiếp tục suy yếu.

Giá nông sản nhập khẩu hạ nhiệt

Ông Phạm Quang Anh cho biết trong tuần này, thị trường sẽ tiếp tục phản ứng với các số liệu về nguồn cung nới lỏng hơn ở Argentina từ báo cáo cung - cầu nông sản tháng 3. Bên cạnh đó, mối quan tâm cũng sẽ dần chuyển sang triển vọng mùa vụ sắp được gieo trồng của Mỹ, trước khi diện tích dự kiến sẽ được công bố vào cuối tháng 3 này.

Trên thị trường nội địa, ghi nhận trong sáng nay, tại cảng Cái Lân, khô đậu tương Nam Mỹ nhập khẩu về Việt Nam được chào bán ở mức 15.050 - 15.200 đồng/kg đối với kỳ hạn giao trong quý II; giá ngô dao động quanh mức 8.000 - 8.400 đồng/kg, giảm khoảng 50 - 100 đồng/kg so với đầu tuần trước. Tuần này có thể sẽ là thời điểm hợp lý cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu khi dự báo khô hạn ở Nam Mỹ sẽ được cải thiện từ đó giúp giá nông sản tiếp tục hạ nhiệt.

PL

Nguồn:

Thông tin chứng khoán

Cập nhật ảnh...
Nguồn : stockbiz.vn
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,00
5,10
5,10
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,40
5,50
5,60
7,40
7,50
7,70
7,90
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,30
7,30
7,30
7,30
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,30
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.270 23.640 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.330 23.630 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.290 23.655 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.280 23.650 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.240 23.620 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.300 23.800 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.273 23.778 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.306 23.650 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.290 23.910 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.350 23.680 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)

Giá vàng Xem chi tiết

Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
66.450
67.070
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
66.450
67.050
Vàng SJC 5c
66.450
67.070
Vàng nhẫn 9999
55.050
56.050
Vàng nữ trang 9999
54.950
55.650